CẶP ẤM MẦU LAM KHÓI ! Truyện ngắn của : Lao quangthau. 7-9-2020 .
Truyện được viết dựa trên cốt truyện HOA GẠO ĐÁY SÔNG. Của nhà văn Nguyễn Hải Yến
.
Phần 1.
Sau nhiều năm tích cóp, Thùy đã có một số vốn kha khá, cô quyết định thực
hiện giấc mơ của mình. Thùy cũng không hiểu sao ? Mình là đàn bà con gái mà lại
có một ước muốn lạ lùng như vậy? Đáng lẽ ước muốn và sở thích đó phải là cánh
đàn ông trung trung tuổi chứ không phải là cô, một người con gái mới qua ngưỡng
tuổi hai bẩy. Tuy gốc Hà Nội nhưng từ nhỏ Thùy đã mê mẩn với những mùi hương của
Trà, mỗi lần ông nội cô pha trà, kiểu gì cô cũng xán lại gần, xin một chén trà
đưa lên mũi hít hà, cô đắm mình trong mùi vị thơm nhẹ, thanh tao của hương trà
Thái , nhất là nó được ướp từ nhụy hoa Sen, hay hương Bưởi, nương Nhài. Cô
thích nhất là mùi hương Bưởi, nó thanh tao nhẹ nhàng quyến rũ làm sao. Khi Thùy vào cấp ba ông nội cô mất. Thỉnh thoảng
lắm cô mới có dịp thấy bố cô giở bộ ấm tách của ông nội cô ra tỉ mẩn lau chùi rồi
pha một ấm trà ngồi thưởng thức. Ông cứ ngồi nghiêm cẩn , mắt nhìn xa xăm thỉnh
thoảng đưa chén trà lên môi làm một tợp rồi chậm rãi nuốt từng chút từng chút ,
Thùy thế nào cũng mon men lại gần xin bố một chén , cô cũng nhẩn nha thưởng thức
nó như một người cao niên vậy. Và rồi ước mơ mở cho mình một quán trà bắt đầu
manh nha, để rồi nó lớn dần lên trong cô.
Thùy được một người bạn giới thiệu một căn nhà trong ngõ tại phố Quốc tử
Giám, khi người bạn đưa cô đến xem nhà , Thùy ngỡ ngàng trước vẻ đẹp cổ kính,
trầm mặc của nó. Ngay phía trước ngôi nhà là khoảng sân được lát bằng gạch
vuông mầu nâu, có mấy cây hoa nhài đã già cỗi, Một cây bưởi lâu năm, gốc đã sần
sùi, có rêu phong bám trên thân cây, ngay góc sân là bụi tre ngà đã già cỗi,
nhìn gầy guộc gân guốc, rồi hai cây cau
cao ngỏng nữa. Thùy không ngờ giữa lòng Thủ Đô còn có nơi hoang sơ, cổ kính như
vậy. Thùy mê mẩn với kiểu Classic
romance giữa lòng phố thị ồn ào náo niệt này. Ngôi nhà hai tầng có tường xây
nhưng bên trong nội thất lại được làm bằng gỗ , từ bậu cửa cho đến các ô cửa đều
bằng gỗ rất dầy. Một người đàn ông quắc thước, mặc bộ quần áo mầu nâu , ria mép
và râu để chòm dài, trắng như cước, nhìn rất hợp với khuôn mặt xương xương của
ông. Đôi mắt của ông rất sáng, khuôn mặt lúc nào cũng tỏ ra nghiêm ngắn. Cô bạn
của Thùy cất lời : Thưa ông cháu đã nói chuyện trước với ông rồi đấy ạ, đây là
cô Thùy bạn của cháu, cô ấy đang muốn tìm một chỗ có thể mở quán bán nước trà theo
phong cách xưa cũ. Nghe đến đây mắt ông lão sáng lên, thần thái cũng linh hoạt
hơn , ông nói : Vậy hả ? Vậy thì tôi đồng ý ngay, thú thực với các cô , có nhiều
người đến đây muốn thuê căn nhà này lắm, nhưng tôi không đồng ý. Nơi này gần
Văn Miếu sát cạnh là Hồ Văn, nơi này thanh tao, linh thiêng nên những người thuê với mục đích khác tôi không đồng ý, thú
thật với hai cô, gia cảnh nhà tôi không thiếu, nên không quan trọng về chuyện tiền bạc, tôi cũng già rồi, con cháu
nó không muốn tôi ở một mình , nhà này tôi lại không có ý bán, vì nó gắn liền với
nhiều kỉ niệm của gia đình chúng tôi. Nếu cô thuê dùng để mở quán trà thì tôi
ưng ngay.
Thùy từ lúc bước chân vào không
gian này, cô như bị mê hoặc bởi những thứ xưa cũ có phần liêu trai, nó như một
giấc mơ từ thời xa xưa rất lâu bây giờ trở thành hiện thực, mọi thứ làm Thùy cứ
lâng lâng khó tả, cô thấy như mình trở lại một nơi kỉ niệm xưa cũ, nó làm xúc cảm
trong cô trào dâng. Ông cụ cất lời tiếp : Thế này hai cô ạ, tôi đồng ý cho các
cô thuê nhưng với điều kiện giữ nguyên hiện trạng thế này, không được thay đổi
bất kể thứ gì. Tiền thì tôi nhất trí như vậy, cứ nửa năm tôi đến lấy một lần,
có điều tôi chỉ xin các cô , mỗi lần tôi quay về đây tôi được mời một ấm trà là
tôi vui rồi. Cô bạn và Thùy làm hợp đồng
rồi hẹn hôm sau sẽ mang đủ tiền trả trước sáu tháng. Hai bên đều hài lòng khi mọi
việc suôn xẻ chóng vánh như vậy. Ông cụ vui ra mặt, ông như đang cố nhớ một điều
gì, và rồi ông gật gù nói : Để tôi cho cô xem một thứ này. Nói rồi ông xăm xăm
đi vào trong , ông lên trên gác, tiếng cầu thang gỗ phát ra tiếng thịch thịch rất
nhẹ. Một lát thì ông cầm một gói giấy được bọc bằng mấy lớp ni lông. Ông cười rất
thân thiện rồi ngồi xuống ghế. Ông đặt gói đồ xuống bàn, từ từ tháo từng lớp bọc
ra. Cuối cùng là chiếc ấm trà mầu lam khói nhìn rất lạ, có vẻ đã rất lâu năm hiện
ra. Thùy bất ngờ đến ngỡ ngàng, trời ơi, nó đẹp quá, cái mầu của nó làm Thùy mê
mẩn, chưa bao giờ cô thấy một chiếc ấm nào lạ kì như vậy, ngay mầu sắc cũng rất
đặc biệt. Từ lúc chiếc ấm hiện ra, không gian như dừng lại. Thùy cảm nhận rõ có
một thứ hương rất lạ đang lãng đãng trong không gian, cô như bị thôi miên, ông
lão cất tiếng xua tan cái không khí tự nhiên chùng xuống : Tôi có cái này, tôi
từ lâu đã không dùng, thực ra nó là một kỉ vật của người trong gia đình tôi. Cô
đang cảm thấy rất lạ phải không ? Bởi có chút hương thoảng trong không gian, có
thật đó cô. Hương bưởi đó.
Ông lão trở nên hoạt bát, ông nói tiếp : Hai cô ngồi đây, tôi đi đun nước
pha trà , rồi tôi sẽ kể câu chuyện này ! Ông lão xăng xái đi xuống cuối nhà để
đun nước. Thùy như bị chiếc ấm cũ thôi miên. Cô cứ nhìn hút vào nó, thật kỳ lạ,
cô cảm giác như mình đang lơ mơ đang phiêu dạt về một nơi nào đó rất khó gọi
tên, hồn cô cứ u u mê mê bềnh bồng, lang thang ở một nơi rất lạ nhưng lại có cảm
giác rất thân quen. Cô bạn thấy Thùy tự nhiên như bị hớp hồn, cô vỗ vào tay bạn
nói : Này ! mày làm sao vậy ? Thùy giật mình thảng thốt nói : Lạ lắm mày ạ, từ
lúc tao nhìn thấy cái ấm này, trong người tao cứ sao ý. Vừa lúc ông lão mang
siêu nước sôi lên. Ông đặt chiếc ấm lên cái khay gỗ tương đối lớn, phía dưới
khay có một khay nhựa để hứng nước. Ông tỉ mẩn rót nước sôi vào trong ấm, rồi đậy
nắp lại ông rót lên trên ấm sau đó ông cầm chiếc ấm rót đều vào mấy chiếc chén
gốm mầu ngọc bích . Ông mở hộp thiếc đựng trà, nhúm từng nhúm trà nhỏ cho vào ấm,
rồi ông tráng qua một lượt nước sôi, sau mới đổ nước vào hãm. Xong rồi ông xoa nhẹ hai tay. Ông hướng mắt ra phía
ngoài , ánh mắt dừng lại ở cây bưởi, ông chậm rãi nói : Trà tôi đang pha được ướp
bởi hoa từ cây bưởi kia đó, tôi ướp từ đầu năm, còn một chút cứ dùng dằng không
dám uống hết, cơ duyên thế nào hôm nay gặp được cô. Tôi cảm giác như căn nhà
này đang đợi cô đến thuê vậy, chính vì cái trực giác ban đầu , tôi cảm nhận về
cô, và rồi tôi thấy sự đam mê về trà của cô mà tôi đi đến quyết định này. Nói đến
đây ông dừng lại , tay nâng ấm trà, nhẹ nhàng khéo léo rót ra ba chén. Ông rất
cẩn trọng, hai tay cầm từng chén đặt trước mặt bọn Thùy , ông nói : Mời hai cô.
Nói rồi ông cầm chén trà bằng hai tay đưa từ từ lên mũi, ông hít hà một lát rồi
đưa vào miệng tợp một hơi hết nửa chén trà, ông lão từ từ nuốt xuống, mặt ông
giãn ra thật khoan khoái. Thùy cầm chén trà lên , miệng nói : Con mời ông. Rồi
cô đưa dần lên mũi, một mùi hương rất nhẹ bay vào mũi cô, nó làm rung động não
bộ của cô. Thật tuyệt , mầu nước xanh hơi ngả vàng, trong veo, mùi hương hoa bưởi
thật nhẹ, vô cùng thanh tao, cô nhấp từng ngụm nhỏ, cô thấy lần đầu được uống
loại trà ngon như thế. Cô bạn đi cùng không rành về trà lắm cũng gật gù khen
ngon.
Ông cụ cất lời tiếp : Tôi biết cô đang thấy hương vị rất lạ phải không ?
Ngoài trà ngon ra , nó còn phải từ cái ấm này nữa đấy. Thùy đưa đôi mắt tò mò
nhìn ông lão. Ông nói tiếp : Cô ạ, trên đời này có hai chiếc ấm này mà thôi,
cái này là ấm dương, còn một cái là ấm âm, chúng giống hệt nhau, chỉ phân biệt ở
núm trên nắp này thôi, cô nhìn kỹ cái núm này đi, có phải nó có hình con ve sầu
phải không? Đó nó biểu trưng cho mùa hè, cho sự hoan ca của trời đất. Còn cái
kia tôi nghe nói cái núm của nó hình tròn , cái nắp và núm của nó như vú của
người đàn bà vậy, nên được gọi là ấm âm. Tôi chỉ nhớ anh cả của tôi, ngày trước
mang từ mạn ngược về , anh ấy nâng niu lắm, nói đến đây, giọng ông chùng xuống,
có phần bùi ngùi, ông lại nói tiếp : Nhưng rồi ông ấy không về nữa, tôi cũng cất
đi luôn vì mỗi lần nhìn nó tôi lại nhớ đến ông ấy. Trầm ngâm một lát ông nói tiếp:
Bây giờ tôi cũng sắp đi theo ông ấy rồi, có thể còn do cơ duyên của tiền kiếp
mà tôi được gặp cô, chắc có sự giun rủi thần bí nào đó đã đưa cô đến đây thuê
căn nhà này, mà lại mở quán trà , là thứ mà anh tôi rất nghiện và tâm đắc. Chi
bằng tôi giao nó cho cô , có điều nó là vật vật quý nên cô đừng bao giờ bán nó.
Tôi tiếc là con cháu của chúng tôi nó thờ ơ với món trà Việt này, bây giờ chúng
chỉ quan tâm vào mấy thứ nước uống được du nhập từ nước ngoài về.
Thùy ngỡ ngàng với món quà quý giá này, cô lắp bắp nói : Thật quý quá,
con cảm ơn ông rất nhiều. Chắc là do cơ duyên mà con được gặp ông rồi lại được
ưu ái thế này, nếu có thời gian ông cứ qua lại quán của con, lúc nào con cũng mời
trà ông ! Ông lão cười khà khà nói : Mấy đứa con của tôi chúng ở nước ngoài hết
, chúng đang giục tôi sang đó. Nhưng tôi cũng cảm ơn cô trước , có dịp là tôi
trở lại đây ngay. Còn cô cứ yên tâm mà kinh doanh, không ai làm phiền đến cô
đâu, tôi sẽ để lại cho cô số điện của cháu tôi, nó sẽ đại diện thay tôi giao dịch
với cô. Thùy nghe vậy có vẻ ngại, ông cụ hiểu ý liền nói : Không sao đâu cô,
cháu tôi nó chỉ có nghĩa vụ làm theo lời tôi, chứ tôi không để nó can thiệp vào
chuyện nhà cửa và chuyện buôn bán của cô đâu. Cô bạn đi cùng Thùy nhéo tay cô ra
hiệu chuẩn bị đi về. Thùy gật đầu rồi nói với ông cụ : Dạ thưa ông, chúng con
xin phép ra về, sáng mai chúng con sẽ quay lại để chồng tiền và nhận nhà luôn ạ.
Ông cụ gật đầu, cụ nói : Vâng hai cô về, hẹn gặp lại sáng mai. Thùy nói với ông
cụ : Dạ ông giữ hộ cháu cái ấm , mai cháu quay lại xin nhận ạ. Ông cụ gật đầu
nói : Vâng, cô cứ an tâm , mai cô lại nhé. Thùy bước chân ra ngoài đường cái,
cô bạn dắt xe máy đi bên cạnh, cô cất lời hỏi Thùy : Được không mày ? Thùy gật
đầu nói : Đúng ý tao mày ạ. Mà này từ lúc tao nhìn thấy chiếc ấm mầu lam khói
đó mà như bị nó thôi miên ý, lạ lắm , nó như đã quen thuộc gần gũi với tao từ
lâu vậy, mà nó như có linh hồn ý, nó đang mê hoặc tao. Cô bạn nhìn Thùy vừa cười
vừa nói: Mày lãng mạn nhỉ, đấy gọi là có cơ duyên đấy. Thùy gật đầu buột miệng
: Phải, chắc là do cơ duyên rồi.
Căn nhà được để nguyên như cũ, Thùy cho đặt mấy bộ sập vào trong lòng
nhà, trên mỗi bộ sập cô cho đặt một bộ đồ ấm chén bằng gốm nung, cùng đồ pha
trà, một lọ hoa được cắm mấy bông hoa khô rất đẹp, chúng vẫn giữ nguyên mầu sắc,
nhìn rất sống động. Ngoài sân cũng được bầy mấy bộ bàn ghế. Trên bàn cũng bầy
biện như vậy. Từ bục cửa trước vào trong nhà, bên phải là chiếc bàn gỗ, có bốn
chiêc ghế đặt xung quanh, ở giữa, Thùy bầy một chiếc thống nung mầu nâu lớn,
bên trên là một lọ gốm cắm những bông sen còn tươi nguyên, quán trà được bài
trí rất thanh nhã và đẹp, hai cô nhân viên mặc quần đụp mầu đen, phía trên là
chiếc yếm đào để hở bờ vai non tơ mịn màng rất bắt mắt, chiếc yếm che kín hết phần
ngực nhưng nó lại rất gợi cảm, bởi phần ngực của các cô hai đầu vú nhô ra nhòn
nhọn rất khêu gợi, phần dưới của chiếc yếm là phần da thịt trắng phau mịn màng
lấp ló mỗi khi mấy cô đi lại. Thùy thật có con mắt tinh tế khi thiết kế từ nội
thất lẫn bộ xiên y của nhân viên. Vì là quán gần với Văn Miếu nên cũng nhiều
tao nhân mặc khác lui tới, cũng toàn những người nho nhã cả. Thùy cảm thấy bao
nhiêu cố gắng của mình đã được đền đáp. Cô đứng ngắm chiếc ấm lam khói trong ô
kính của cái tủ tường mà thấy mình thật may mắn, bao nhiêu cảm xúc cùng ùa về.
Tiếng mưa roàn roạt quất trên những mái tôn của các nhà hàng xóm, nghe
như từng chậu nước được hắt lên trời rồi đồng loạt rơi xuống vậy, Thùy nằm trên
gác hai, cũng mới chợp mắt được một lát, cô đang mơ hồ thì tiếng mưa càng dìu dặt
hơn, cũng chuẩn bị rằm tháng bẩy rồi, tháng mưa ngâu nên trời cứ hay mưa bất chợt
như thế, hơi lạnh tỏa vào căn phòng chỉ có mình Thùy đang ngủ, cô bất giác quơ
tay kéo chiếc chăn dạ kéo lên ngang bụng. Tiếng mưa vẫn rơi đều từng chặp chư
thế. Bất giác Thùy ngồi dậy, cô muốn xuống dưới kiểm tra xem có thứ gì chưa cất
không. Tiếng lộp cộp rất nhẹ phát ra từ đôi dép da mỏng, cô đi xuống hết cầu
thang gỗ, mắt đưa ra phía cửa, ơ kìa ! Mình nhớ là mình đã đóng cửa, cài then kỹ
rồi mà, sao bây giờ một cánh cửa gỗ cứ nhè nhẹ đưa ra đưa vào như có đứa trẻ
con nào đang nghịch vậy. Thùy bỗng chốc nổi da gà, chiếc áo cánh lụa mỏng hình
như làm cô lạnh thì phải. Thùy rảo bước ra cửa , cô mở nốt cánh cửa bên này, bụi
mưa được thể vương lên tóc lên mặt cô. Thoáng chút rùng mình, hai tay ấp lên
hai bên ngực như muốn lấy hơi ấm từ hai bàn tay. Bỗng mắt cô sững lại, bên bụi
tre ngà già có một nam nhân dáng hình cao ráo đang đứng, mắt ngước lên như đang
nhìn thứ gì đó, lưng quay về phía cô. Thùy cố trấn tĩnh , cuối cùng cô cũng
phát ra được tiếng nói : Thưa ông ! Cô nói đến lần thứ hai thì người đàn ông
quay lại mỉm cười nhìn cô.
Nam nhân đó mặc chiếc quần ca ki mầu ghi sáng, bên trong là chiếc áo sơ
mi trắng bỏ trong quần, bên ngoài là chiếc áo khoác bằng vải dầy mầu da bò dài
gần đến đầu gối. Thùy thấy khuôn mặt người đàn ông thanh thoát đẹp trai, trông
anh ta chừng ngoài bốn mươi tuổi. Thùy cất lời : Thưa ông , ông vào trong này
ngồi kẻo ướt hết. Nam nhân vội gật đầu, miệng vẫn giữ nguyên nụ cười thân thiện.
Đôi giầy đen bóng loáng đầy những hạt nước mưa bám lên, gấu quần cũng bắt đầu ướt.
Anh ta rảo bước tới cửa. Thùy lùi sang bên để cho Nam nhân đi vào. Thùy đưa tay
bật công tắc một bóng đèn nhỏ lên, ánh sáng
vừa đủ cho họ nhìn tỏ mặt nhau. Người đàn ông ngước nhìn xung quanh rồi
bất chợt dán mắt vào chiếc ấm mầu Lam khói, mắt anh ta sáng lên, rồi như rất
nhiều cảm xúc ùa về trong ánh mắt , khuôn mặt đó. Nam nhân lẩm bẩm: Trời ! Nó
đã được trao cho người ta rồi sao ? Còn cái của nàng hiện giờ ở nơi đâu ? Nam
nhân chuyển sang vẻ mặt buồn bã, đôi mắt bất chợt xa xăm khó hiểu.
Dạ mời ông ngồi, trời hơi xe lạnh, để tôi đi
pha trà mời ông. Nam nhân lại chiếc ghế nơi Thùy Chỉ rồi ngồi xuống. Nam nhân
muốn nói gì đó nhưng có vẻ e ngại, cuối cùng anh cũng nói : Thưa cô, tôi muốn uống
trà cô pha trong chiếc ấm Lam khói kia có được không ? Thùy chợt sững người,
hơi lạnh bất chợt chạy từ sau hông lên đến đỉnh đầu. Cô chấn tĩnh rồi trả lời :
Dạ, thưa được ạ. Người khách cười vui vẻ, khuôn mặt càng tỏ ra bí hiểm. Thùy đi
đặt ấm nước, rồi lại chiếc tủ mở cánh cửa kính ra cầm chiếc ấm lại bàn. Người
đàn ông nhìn chiếc ấm đắm duối, với ánh đầy trìu mến. Thùy lại chiếc bàn nơi quầy
ba lấy ra một hộp trà bằng gỗ mang ra bàn, cô mở nắp hộp, mở lượt túi ni lông,
một mùi hoa cúc rất nhẹ thoát ra, người đàn ông ngẩng lên hít hà mùi hương thơm
vừa thoát ra đó. Sau rồi Nam nhân ngước lên nói với Thùy : Thưa cô , cô có trà
hương bưởi không ? Thùy ngập ngừng rồi cũng cất lời: Dạ thưa có, tôi còn một
chút vì không nỡ uống hết, còn mấy tháng nữa mới lại ướp tiếp được. Nhưng tôi sẽ
mời ông. Thùy biết mình đã gặp được người rất sành thưởng trà. Cô lại quầy lấy
ra một hộp nữa mang ra. Nam nhân mắt sáng lên khi chiếc nắp hộp vừa được mở ra.
Chà tuyệt quá, lâu lắm rồi… Nam nhân nói đến đó thì cảm động thực sự, trong đôi
mắt như có màng nước nhẹ thoáng qua.
Thùy nhẹ nhàng cho từng nhúm trà vào ấm, cô đổ nước sôi vào rồi lắc nhẹ,
cô vội rót hết ra hai chiếc chén đã ngửa ra sẵn. Cô rót hết nước thì đặt xuống
mở nắp ra chế cho đầy rồi đậy nắp lại. cô rót nước nóng trên nắp ấp trà, hơi
nóng bốc lên tỏa ra cùng hòa với mầu chiếc ấm
lam khói, nhìn như ảo ảnh, nó cứ như chấp chới trong mắt Thùy. Nam nhân
chợt lên tiếng xóa tan không gian ảo ảnh đó : Thưa cô, để tôi rót hầu cô. Nói rồi
Nam nhân nhẹ nhàng nghiêng chén đổ hết nước đi, sau rồi cầm ấm rót trà vào
chén, tiếng tí tách rất nhẹ phát ra, khiến Thùy đầy cảm phục. Bụng nghĩ; Người
Nam nhân này chắc cũng hiểu biết về thú ẩm trà này lắm đây ! . Cô đón chén nước
trà vừa được đặt trước mặt cô, mầu nước trà xanh mướt mắt, khói lan nhẹ trên mặt
chén. Thùy đưa lên ngang mũi hít nhẹ, cảm giác sảng khoái lan ra toàn cơ thể.
Nam nhân hai tay nâng chén trà lên hít hà, rồi gật gù, rồi anh làm một tợp nhỏ
từ từ cảm nhận vị chát, rồi có chút đắng, vị ngọt dần hiện ra, mùi hương thơm của
hoa bưởi cứ quẩn quanh trong khoang mũi, trong miệng anh. Nam nhân tỏ ra mãn
nguyện, anh nhấp hết chỗ trà rồi đặt xuống rót tiếp, rồi anh hướng mắt về phía
cô. Thùy đặt chén xuống để anh ta rót.
Rót trà xong Nam nhân nói : Thưa cô lâu lắm rồi tôi mới được thưởng trà,
thứ trà hương bưởi này tôi nghiện nó lắm, nhưng thưa cô… Nam nhân dừng lại ngập
ngừng . Thùy thấy vậy thì hỏi ngay : Dạ, có gì anh cứ nói đừng ngại.
Nam nhân nhìn vào mặt Thùy rồi nói , lời nói như gió thoảng , như âm âm
từ nơi khác vọng về : Thưa cô , ý tôi là giá mà được uống trà từ nơi ấy, và
chính tay người ấy ướp ! Thùy nghe thấy vậy thì trí tò mò nổi lên : Dạ, anh nói
vậy tôi không hiểu, tức là có một nơi họ ướp loại trà này ngon lắm ạ ? Nam nhân
trả lời : Phải rồi thưa cô , nếu cô có đam mê
về trà, thì cô nên đến vùng đó… chắc chắn cô sẽ hiểu vì sao tôi nói vậy,
và nữa nếu có duyên biết đâu chiếc ấm còn lại sẽ trở về bên cô. Thùy nghe Nam
nhân nói vậy thì hết thắc mắc này lại đến hiếu kỳ khác. Cô sốt ruột hỏi :
Thưa.. anh có thể cho tôi biết địa danh đó được không ạ ? Nam nhân nhìn cô chăm
chú rồi nói : Được chứ, nơi ấy… Ấm trà cũng đã sang nước thứ hai. Ngoài trời tiếng
mưa đã nhẹ đi nhiều, chỉ còn những hạt mưa rất nặng từ các tán cây rơi xuống,
ngoài sân một màn sương mỏng nhẹ cứ lả lướt dật dờ . Thùy chợt có cảm giác như
mình đang rơi vào chốn bồng lai tiên cảnh nào đó, mọi thứ đều lung linh huyền
diệu, trước mặt cô là một người đàn ông rất đẹp, nhưng hình như anh ta không có
thực, kiểu dáng lẫn ăn mặc như từ những năm Pháp thuộc mà Thùy đã được xem
trong phim ảnh. Thùy véo nhẹ vào cổ tay , cô cảm nhận được cái véo đó nó nhói
vào tận tim cô. Nam nhân nhìn thấy hành động đó của cô, anh ta cả cười rồi đứng
lên , anh cất tiếng : Thưa cô, trời đã hết mưa, vả lại cũng đã ngoài canh ba rồi,
tôi đã làm phiền cô quá, cảm ơn cô rất nhiều. có dịp tôi sẽ quay lại thưởng thức
trà của cô, vả như cô có về vùng sơn cước đó, cô sẽ có loại trà tuyệt vời hơn
nhiều, và biết đâu, tôi sẽ lại gặp được người ấy. Thùy nghe thấy khó hiểu,
nhưng vẫn đứng dậy tiễn khách, Nam nhân đi nhẹ nhàng ra cửa , anh ta quay lại chào
cô lần nữa rồi rất nhanh anh ta biến mất. Thùy ngỡ ngàng , mới đó mà đã không
còn hình bóng cùng thanh âm . Thùy cảm thấy mệt mỏi, cô quay lại chỗ bàn, liền
cầm chiếc ấm mầu lam khói đi rửa rồi lấy khăn lau khô, cô cẩn thận đặt nó vào lại
chỗ tủ tường. ( Còn nữa )
CẶP ẤM MẦU LAM KHÓI ! Truyện ngắn của : Lao quangthau . 7-9-2020
Phần 2
Tiếng điện thoại reo lên mấy hồi chuông. Thùy mới uể oải mở mắt rồi giật
mình vì thấy trời đã sáng bảnh , Thùy cầm điện thoại lên thì thấy số của cái Hồng
, nhân viên của cô. Thùy nói giọng nhừa nhựa : Có việc gì đấy em ? Con Hồng nó
nói có vẻ khẩn trương : Chị có bị sao không đấy ? Sao giờ này vẫn chưa ngủ dậy
? Chị xuống mở cửa cho em đi. Thùy lúc này mới tỉnh hẳn cô liền nói : Ừa ừa chị
xuống ngay đây. Thôi chết sao mình lại ngủ trưa trầy trưa trật thế này chứ ?
Thùy bật dậy, với chiếc áo cánh khoác thêm vào người, cô vội vàng đi ra cầu
thang bước xuống, đôi vú tròn mẩy hơi cong không có áo lót, nó chứ nhẩy tưng
tưng theo bước chân của cô. Phía dưới sân im ắng, mấy con chim sẻ đang kêu lách
chách nhặt thức ăn dưới sân, chúng nhẩy lên xuống như ở nơi nhà hoang vậy. Trên
cây bưởi già mấy con chim sâu cũng đang líu ríu cùng đám chim non đang tập bay
của chúng. Thùy loay hoay mở khóa cửa. Con Hồng cùng con Vân cũng vừa đến, chúng
cùng lên tiếng: Bà chủ đêm qua chắc bận bịu gì rồi đây ? Thùy mở toang cánh cửa
rồi nhìn chúng tủm tỉm : Gì chứ, chỉ là thời tiết giao mùa, mát quá mà ngủ quên
thôi. Thùy nói vậy. Hai đứa nhân viên nhìn nhau cười. Thùy chợt nhớ đến chuyện
đêm qua, cô thẫn thờ đứng nhìn vào những nơi Nam nhân đã ngồi , đã đứng, cô tự
hỏi : Hôm qua là mơ hay là thực nhỉ ? Bọn nhân viên đã thay quần áo, chiếc yếm
cứ nẩy tưng tưng vì cặp vú đâm ra làm căng vạt áo, phần bụng trắng nõn phẳng lì
lấp ló sau mỗi bước đi của hai đứa.
Thùy ngồi vào đúng chỗ đêm qua mình ngồi , cô hình dung ra Nam nhân đang
ngồi trước mặt, nét tao nhã góc cạnh rất đàn ông của anh ta vẫn như còn đây.
Thùy cứ hồ nghi tự hỏi ; Đêm qua có phải là sự thật không ? Rồi cô ngước lên chỗ
để chiếc ấm mầu Lam khói , nó vẫn nằm im lìm ở đó. Cô đứng dậy, tiến lại mở cửa
kính ra với tay cầm chiếc ấm, cô mở nắp ra, bên trong lòng ấm vẫn còn xâm xấp ướt.
Thùy khẳng định lại, vậy là mình không mơ. Quái lạ, vậy Nam nhân đó làm sao mà
vào được cổng trong khi mình đã khóa kỹ ? Rồi lúc chia tay anh ta đi nhanh như
gió thoảng ?. Thùy bất chợt lạnh toát người, gai ốc nổi lên rần rần. Con Hồng
đang lo chuẩn bị cho việc bán hàng nhưng vẫn để ý đến chị chủ của nó, nó thấy
Thùy ngồi bần thần như vậy, nó tỏ ra quan tâm , nó nói : Chị ơi, chị có bị sao
không mà em thấy chị lạ quá? Cứ như bị ai bắt mất hồn ý. Mà chị hôm nay nhìn gợi
cảm quá cơ, nó nói xong cười hích hích , nó quay sang nhìn con Vân , hai đứa cùng
bụm miệng cười. Mặt Thùy đỏ lên, cô giật mình nhìn xuống ngực mình, cô buột miệng
: Thôi chết, mình chưa thay quần áo. Cô đứng dậy thật nhanh chạy vội lên gác,
hai tay che bộ ngực đang cương lên sau làn áo mỏng, nó cứ nhẩy tưng tưng dưới
bàn tay của cô. Thùy vội làm vệ sinh rồi xuống cùng mấy đứa nhân viên chuẩn bị
cho một ngày làm việc mới. Cả ngày đầu óc Thùy cứ bị ám ảnh bởi Nam nhân xuất
hiện đêm qua, rồi cô chợt nhớ lời anh ta nói , ám chỉ đến việc cô nên đến nơi
đó sẽ biết được nhiều về nghề ướp trà và nếu có cơ duyên cô có thể gặp được chiếc ấm Lam khói âm đó. Mặc dù
trong lòng có chút nghi hoặc, nhưng cô quyết tâm sẽ lên mạn ngược để tìm hiểu
rõ ngọn ngành, một mặt muốn biết rõ về thân phận Nam Nhân đó. Cô thu xếp việc,
bàn giao cho mấy đứa nhân viên, cô quyết định thứ bẩy này sẽ đi lên mạn ngược một
chuyến.
Thùy ra bến xe Mỹ Đình đã bốn giờ
chiều, cô lên xe đi Yên Bái, cô trả tiền vé, không quên dặn anh phụ xe cho cô
xuống ngã ba Cát lem. Chiếc xe chốc lại đỗ bắt khách, Thùy lúc thiu thiu ngủ
lúc lại bị giật mình vì xe đang ngon trớn lại phanh khựng lại đón khách, cô
nghĩ bụng ; Thế này chắc tối mới tới ngã ba Cát Lem, bây giờ cô mới hoang mang,
không biết đến đó rồi sẽ bắt đầu từ đâu ? Gần bẩy giờ xe mới dừng lại ở ngã ba
Cát Lem, anh lơ xe vỗ vỗ vào vai cô nói
: Này chị, chị xuống ngã ba Cát Lem hả ? Đến nơi rồi đấy. Thùy trả lời : Vâng,
cảm ơn anh. Cô cầm chiếc túi dạng ba lô bằng vải bạt , mỗi lần cô đi đâu xa đều
dùng đến nó , cô đeo vào vai rồi len xuống xe. Đứng dưới đường một lúc, cô nhìn quanh ngã ba, trời bắt
đầu ngả mầu xám xịt , xung quanh là những nhà thấp quá lắm cũng chỉ đến hai tầng,
những hàng quán xập sệ, phía bên tay phải của cô là một khu chợ hàng quán là những
cái lều che tạm, chúng cũng im lìm vì chợ chỉ họp buổi sáng. Trong đó chỉ có một
hai con chó hoang đang cần mẫn đi đến từng cái sạp hàng để la liếm thứ gì còn
sót lại, còn phía bên đường nhà cửa được làm trên nền đất cao hẳn lên, ánh đèn
đường thoảng mới có một cái, những ngôi nhà đều đã đóng cửa. Thùy thấy có một
gian thấp bán tạp hóa, mà người bán hàng chắc đang dọn đồ để về, cô vội rảo bước
đến trước cửa, rồi mạnh dạn vào gần hơn, cô cất tiếng : Thưa chị, chị làm ơn
cho em hỏi , ở đây có nơi nào họ chuyên làm trà ướp bằng các loại hương hoa rừng
không chị ? Người phụ nữ trạc ngoài bốn mươi nhìn dáng người hơi đậm, khuôn mặt
thanh thoát chị ta cất tiếng: Là sao hả em ? Tôi chưa nghe nói đến chuyện đó
bao giờ. Nghe giọng chị ta nói và cách
ăn mặc Thùy đoán chị ta là người Dao hay Tầy gì đó. Cô nói tiếp : Dạ, em nghe
nói có một nơi như thế ? Chị chủ quán đứng im một lát ra chiều nghĩ ngợi, chị
ta trả lời dứt khoát : Không có đâu em . Mà em từ đâu tới, sao lại đến đây muộn
thế này? Theo tôi thì em nên đi tìm nhà nghỉ để ngủ lại đi, rồi ngày mai em đi
dọ hỏi biết đâu có câu trả lời thì sao. Phía trong, gần cuối cửa hàng có một
người đàn bà tầm hơn bẩy mươi ăn mặc quần áo theo kiểu người Nùng, bộ quần áo xanh
thẫm đã hơi bạc mầu, trên đầu chit khăn mỏ quạ, chiếc áo cánh có nẹp mầu ghi tối
chỗ cài khuy vải, hai cánh tay hơi cộc cũng có nẹp mầu ghi, để lộ ra cổ tay khẳng
khiu nhăn nheo, chiếc quần ống què dài quá đầu gối, lưng bà đã hơi còng, khuôn
mặt hằn lên nhiều vệt thời gian, duy có đôi mắt rất sáng và nhanh nhẹn. Bà vẫn
lắng nghe Thùy và chị chủ quán nói chuyện. Đến lúc này bà mới cất tiếng hơi ngọng
, giọng của người dân tộc : Cháu ơi, cháu hỏi nơi đó có việc gì không? Tôi biết
có một nơi như vậy. Thùy giật mình cô nhìn vào phía trong nơi phát ra giọng
nói, có chút gai gai nơi sống lưng, cô bất chợt thấy giọng nói của người đàn bà
cất lên từ chỗ tranh tối tranh sáng, hình như bà ấy đang chọn mấy thứ đồ trong
đó. Chị chủ quán tỏ ra ngạc nhiên quay vào hỏi bà cụ : Vậy là có thật hả Bà?
Sao con lớn lên ở đây mà không biết có một nơi ấy ?
Bà cụ tiếp lời: Sao mà cháu biết được, chỉ có thế hệ người già như bà mới
biết. Bà cụ một mặt chọn đồ, thỉnh thoảng lại nhìn soáy vào Thùy, bà cụ hỏi cô
: Mà cháu à, sao cháu biết là có nơi đó, người ở đây còn không biết mà ? Thùy vội
trả lời : Dạ thưa bà, cháu bán quán trà ở Hà Nội, chuyên về Trà ướp hương các
loại hoa bà ạ, bữa rồi có người mách cháu lên trên này sẽ biết được nhiều thứ
hơn, sẽ giúp ích cho công việc kinh doanh của cháu hơn. Nghe đến đây bà cụ chợt
rùng mình , toàn thân rúng động, bà nói tiếp , tiếng nói khào khào nhẹ như gió
nhưng nghe rất rõ: Phải rồi, vậy là ngày này cũng đã đến, cháu quả là có cơ
duyên. Nói xong bà cụ mang cái tay nải mà bà đã chọn đồ xong, bà đưa về phía chủ
quán , cháu tính tiền cho bà đi. Chị chủ quán nhìn qua, thấy có cái đèn dầu, mấy
cái bóng đèn, mấy cái bật lửa, một xấp mấy bộ đồ vàng mã kiểu bộ đội, một chiếc
mũ cứng, mấy gói kẹo bột… Cô chủ quán đưa tay nải đeo lên vai bà cụ , cô mỉm cười
nói : Bà ơi con biếu bà, mấy thứ này không đáng bao nhiêu, mà dạo này sao lâu
bà mới ra với con vậy? Làm con ngóng bà mãi. Bà cụ trả lời : Cháu cứ lấy tiền của
bà đi, đừng cho bà nhiều vậy, mà không có việc gì nên bà ít ra ngoài, còn mấy bữa
nữa là rằm tháng bẩy nên bà mới phải ra sắm mấy thứ đồ cho ông ấy. Thùy nghe
hai người nói chuyện cô cũng không biết trong tay nải của bà cụ có những gì. Chị
chủ quán lại lên tiếng: Bà về đi kẻo muộn rồi, con biếu bà mà, con được gặp bà
là mừng rồi, mà bà ơi, lần sau bà ra đừng mang quà ra cho con nữa nhé, làm bà vất
vả thêm đó. Nơi góc bàn là mấy cái măng vầu căng mọng cùng chai mật ong rừng được
đựng trong chai bia tầu mầu xanh. Chị chủ quán nhìn mấy thứ quà của bà lão ra
chiều cảm động.
Bà cụ ngước nhìn Thùy rồi nói : Nào, cháu đi với bà, bà sẽ chỉ cho cháu
nơi cháu cần đến, nói rồi bà cụ cầm chiếc gậy làm bằng gốc cây mây già đã lên
nước bóng theo thời gian, chiếc đầu gậy sù gì râu tóc nhìn thoáng như một đầu
con sư tử vậy. Cụ tỏ ra hoạt bát vẫy Thùy đi cùng. Chị chủ quán cất lời : May
quá, vậy là em gặp đúng quý nhân rồi đấy, chúc em may mắn nhé. Chị quay qua bà
cụ nói : Bà về nhé, bà đi cẩn thận đấy, nhớ thỉnh thoảng ra với cháu. Bà cụ gật
gù nói : Cảm ơn cháu , bà còn khỏe mà, sẽ còn ra thăm cháu nhiều mà. Thùy lầm
lũi đi theo sau lưng bà cụ. Bà bắt đầu rẽ vào con đường mòn nhỏ , bà bật chiếc
đèn Pin hai pin của tầu lên, ánh sáng bằng chiếc nong nhỏ nhẩy nhót phía trước
họ. Bà cụ bảo Thùy : Cháu đưa tay cho bà, đường rừng đi dễ vấp ngã lắm. Thùy chạm
tay vào chiếc tay nải của bà cụ , cô nói : Bà đưa cháu mang giúp ạ. Bà Cụ lắc đầu
nói : Bà mang được, nhẹ mà , cháu cứ đi theo sát bà là được. Con đường cứ sâu
hun hút chỉ có ánh sáng loang loáng của chiếc đèn pin nhẩy múa trong bóng tối đen
thẫm, cứ một chút lại có tiếng mấy con chim giật mình bay lên , có lúc con chim
to như con diều hâu bay vụt lên bà cụ buột miệng nói : Con bìm bịp đấy cháu ạ.
Tiếng lũ dế hòa ca cùng đám nhái , đám chão chuộc. Thùy lần đầu tiên trong đời
đi dưới rừng cây vắng vẻ như thế này, rồi mấy con đom đóm từ đâu xuất hiện
chúng bay lập lòe đằng trước như dẫn đường cho hai bà cháu, thình lình phía xa
xa mấy đám lân tinh bay vụt lên, ánh sáng xanh lét làm sáng cả một góc rừng,
Thùy giật mình lạnh buốt sống lưng, bà cụ đang cầm tay cô thấy tay cô lạnh toát
bà biết cô đang sợ, bà cụ bảo : Đừng sợ, đi với bà thì chẳng có gì phải sợ.
Đến rồi, tiếng bà cụ nói khiến Thùy mừng rỡ, như vừa trút được nỗi sợ ra
khỏi người, cô là người cứng vía chẳng biết sợ là gì, vậy mà cả quãng đường gần
một tiếng đồng hồ, cô phải trải qua bao cảm xúc, lúc sởn da gà, lúc thót tim,
lúc lạnh gáy. Dưới ánh trăng nhờ nhờ hiện ra trước mặt Thùy là một căn nhà đất
trình tường cũ kĩ, mái lợp bằng lá cọ nhiều lớp , chúng đã xẹp xuống nhìn như bết
vào nhau , nhìn ngôi nhà cũng cũ kỹ già nua như chủ nhân của nó vậy. Phía hậu
ngôi nhà dựa vào phần quả đồi thấp , đất chỗ đó đã được xén đều. Cánh cửa không khóa chỉ khép hờ, bậu cửa là
thân tre đực già đã lên nước bóng loáng, bà cụ đi vào trước, Thùy thấy vậy cũng
bám theo sát cụ chứ không dám đứng bên ngoài. Bà cụ lần lấy chiếc bật lửa rồi bật
lên châm vào chiếc đèn dầu để ngay trên bàn, lòng nhà được chiếu sáng nhờ nhờ,
khói từ chiếc đèn tạo thành một vật nhỏ uốn lượn lả lơi trên miệng bóng đèn dầu.
Bà cụ ra hiệu cho Thùy ngồi xuống. Chiếc ghế dài đóng bằng gỗ ván nhìn đơn giản
nhưng chắc chắn, chiếc bàn cũng vậy, đã rất cũ nhưng mặt bàn cũng là miếng gỗ rất
dầy. Cụ bà vào phía trong lôi ra mấy bắp ngô còn nguyên vỏ, rồi cụ kéo chiếc bếp
lò cũ kĩ dưới gầm bàn ra, cụ bốc than củi cho vào rồi cho một nhúm tre khô trẻ mỏng xuống dưới, cụ châm lửa, đám
tre khô bắt lửa cháy bùng lên, bén dần vào đám than củi. Cụ bảo Thùy lấy chiếc
ghế nhỏ lại gần bếp lò cho ấm, nhân thể nướng ngô luôn. Bà cụ nói với Thùy:
Cháu nướng ngô đi nhé, bà đi châm bếp đặt ấm nước chè tươi, lát nữa hai bà cháu
ăn tạm ngô nướng và bát chè tươi cho ấm bụng, chứ giờ này cũng chẳng có gì để
ăn được đâu. Thùy trả lời : Dạ bà, thế này là tốt lắm rồi ạ.
Bà cụ vừa nhóm lửa vừa hỏi Thùy : Cháu gái à, cháu được ai mách mà lên
được đây ? Tay giở đều mấy bắp ngô cho khỏi cháy, ánh lửa từ bếp bà cụ vừa
nhóm, cộng với ánh lửa từ lò than hắt lên, nhìn trong nhà rất lạ, nó có phần
liêu trai, kì bí, vì những ánh sáng đó không đủ soi tỏ lòng nhà nên cảm giác
trong Thùy rất lạ, nó cứ rờn rợn, cô có cảm giác như mình đang ở cõi hồng hoang
nào đó. Này cháu, bà hỏi cháu đấy? Thùy giật mình vội trả lời : Dạ chuyện lạ lắm
bà ạ, mấy hôm trước cháu đang ngủ thì trời mưa và rồi… Bà cụ ngồi chụm lửa
nhưng tai vẫn dỏng lên nghe chăm chú. Khi nghe hết câu chuyện bà thở dài rồi
nói như gió thoảng, thanh âm rất nhỏ nhưng rõ nét : Tội nghiệp ông ấy. Vậy là
ông ấy trở về nhà báo mộng cho cháu biết đấy. Đúng thật là trời xui đất khiến.
Cháu à, bao nhiêu năm nay bà cứ canh cánh trong lòng, từ lúc gặp cháu lòng bà mới
được cởi dần ra đấy! Thùy nghe bà cụ nói mà không hiểu ý tứ của bà. Ấm chè xanh
đã sôi, bà cho thêm củi rồi cứ để cho nó cháy. Bà xách chiếc ấm mang lại chỗ
Thùy ngồi, rồi bà lấy chiếc ấm tích trên bàn mang ra cửa đổ bã cũ. Bà rót nước
chè vào rồi súc kĩ đổ hết đi, sau đó bà mới rót nước trà xanh vào chiếc ấm
tích. Bà lấy ra hai cái bát mầu da lươn rất cũ, rót trà ra, bà cụ nói : Uống nước
đi cháu, trà xanh ở đây uống được lắm. Nói rồi bà cầm bắp ngô vẫn còn nóng từ
tay Thùy đưa, bà tách mấy hạt một cho vào miệng nhai .Thùy cũng tẽ từng hạt cho
vào miệng, mùi thơm thật lạ, hạt ngô nếp dẻo thơm ngòn ngọt, cô chụm ngụm nước
rồi nhìn bà cụ , cô nói : Bà ơi, ngô ngon quá, trà xanh cũng thật ngon bà ạ. Bà
cụ gật đầu nói : Ngô thì mới hái ngay gần nhà. Chè xanh thì bà hái từ buổi sáng
lúc mặt trời chưa mọc, rồi bà ủ vào cái bị, lúc uống mới hãm nên mùi vị cũng đặc
trưng lắm cháu ạ, không nơi nào có được đâu.
Bà cụ nói với Thùy : Cháu à, cháu xuống cuối nhà có chum nước và chậu
đó, cháu rửa ráy rồi đi ngủ, còn nếu đi vệ sinh thì bảo bà, bà dắt ra ngoài kẻo
đi một mình lại gặp phải rắn rết. Thùy trả lời bà cụ : Dạ cháu tự làm được, bà
cứ ngồi nghỉ đi, nói rồi Thùy cầm chiếc đèn pin Trung Quốc mang xuống cuối nhà,
cô đẩy cửa sau đi ra ngoài, cô thấy có một lối mòn nhỏ liền sát với bờ đất thẳng
tắp của quả đồi, cô bật đèn, chậm rãi đi xa hơn nữa, rồi cô ngồi thụp xuống đi
tiểu. Ngay trước mắt cô có vài đốm sáng xanh rất lạ nhìn chằm chằm vào cô, Thùy
rùng mình, cố đi nốt rồi kéo vội quần lên chạy một mạch vào trong nhà. Bà Cụ thấy
Thùy như vậy thì cười rồi nói : Cháu sợ hả , ban đêm ở đây vẫn còn cầy cáo ,
nên chúng đi lại quanh nhà kiếm thức ăn đó. Không có gì khác đâu, nói rồi bà
cũng ra đằng sau một lát, khi vào bà kéo cửa , chốt chặt lại, bà cũng chốt cửa
đằng trước cẩn thận, mấy cái cửa sổ cũng được bà xem lại đã cài chắc chắn chưa.
Bà vừa làm vừa nói : Có cháu nên bà cẩn thận vậy thôi, chứ mỗi mình bà, bà chẳng
cần đóng cửa, sống ở đây quen rồi, chẳng có ma nào bén mảng quấy nhiều bà đâu.
Bà cụ leo lên chiếc giường tương đối rộng, giát giường là thân tre già đập dập,
bà cụ mắc màn rồi xắp hai cái gối đặt gần nhau. Bà nói : Cháu nằm trong nhé, để
bà nằm ngoài cho. Khổ, già cả nên đêm cũng phải dậy đôi ba lần. Thùy thay bộ quần
áo ngủ rồi leo lên giường, cô tung chiếc chăn bông mỏng mầu bộ đội ra đắp lên
ngang người. Bà cụ dọn lại mấy thứ rồi cũng lên giường. Bà nhìn lên nóc nhà bà
nói như nói một mình : Vậy là mai mình sẽ được gặp ông ấy cũng đã một năm rồi,
không biết ông ấy có mong mình không ? Thùy quay nghiêng người ra phía bà cụ cô
buột miệng hỏi : Bà nói đến ai đấy ạ ? À bà nói đến ông nhà bà đấy. Bà cụ nói
xong thở dài, đôi mắt như vừa loang một lớp sương mờ.Thùy hỏi tiếp bà cụ : Vậy
ông ở đâu mà không ở cùng bà ? Bà cụ đáp lại : Chuyện dài lắm cháu à.Thùy tò mò
muốn biết liền nói : Bà cứ kể đi, cháu đang muốn nghe. Vậy là bà cụ bắt đầu kể
cho Thùy nghe bằng cái giọng hơi lơ lớ của người dân tộc:
Hồi đó bà mới có mười hai tuổi thôi, người gầy gò ốm yếu, tóc thì cắt gần
như trọc, vì ông bà chủ nhà thấy bà có nhiều chấy quá nên cắt vậy cho tiện. Sáng
không có ai thân thuộc, bố mẹ, anh em họ hàng, người thì chết đói, người thì bị
dịch bệnh mà chết. Ông bà chủ thương tình mang bà về nuôi. Trong trang ấp có
nhiều người ăn kẻ ở, trong số đó có một cậu khoảng mười lăm tuổi tên Ất, lầm lì
ít nói, nhưng cậu ta lại rất quý Sáng, luôn bảo vệ cô mỗi lúc bị ai bắt nạt. Ất
rất khỏe mới ít tuổi nhưng thân thể đã cường tráng , rắn chắc. Cậu nhiều lúc phải
theo ông chủ đánh trâu hay đưa lâm thổ sản đem về xuôi bán, mỗi bận trở về kiểu
gì Sáng cũng được người ấy dúi cho cái kẹo dồi hay cái bánh gai, cô thích lắm,
trong lòng lúc nào cũng thần tượng chàng ấy. Đến năm Sáng tròn mười Lăm, người
vẫn bé, tóc vẫn ngắn cũn cỡn như thế, chỉ có duy nhất đôi vú là hơi nhô ra như
muốn chọc thủng chiếc áo cánh đã cũ, hông cô cũng có chút nở nang hơn, nhìn
Sáng cũng không ra dậy thì hẳn, nhưng chỉ cần có thế Ất đã đắm đuối ngắm cô mỗi
khi có dịp chạm mặt nhau. Cô cũng không còn thích chàng trai nữa, mà đã mang nỗi
nhớ, nỗi mong mỗi lần chàng ấy theo ông chủ đi bán hàng. Những miếng kẹo dồi
không còn được dấm dúi trộm nữa mà đã đến nơi đợi chờ nhau bên hiên thánh đường
, nơi nhà của Chúa. Nhà thờ cổ kính đó là nơi chứng kiến lần đầu chàng Ất nắm
tay nàng ngỏ lời yêu, Chàng nói rất nhỏ chỉ đủ cho nàng nghe thấy : Mình ạ, tôi
thương mình, chúng mình đợi có chút vốn rồi sẽ xin ông bà chủ cho chúng mình về
ở với nhau, Mình có đồng ý không ? Sáng nóng bừng mặt , tay trong tay chàng
trai mà cả hai đều run rẩy. Sáng lấy hết can đảm nhìn vào mắt người ấy rồi mỉm
cười gật đầu. Ất mừng rỡ nắm tay nàng dắt nàng vào thánh đường, hai đứa quỳ xuống
xin Chúa che trở và ban phước cho chúng. Lời cầu nguyện của hai đứa như được
minh chứng, bởi cũng ngay lúc đó tiếng chuông ngân lên đều, báo hiệu cho các con chiên đến làm lễ,
hai đứa giật mình buông tay nhau ra chạy ra ngoài.
Từ lúc nàng được chàng trai tỏ tình, mới chỉ nắm tay thôi, nhưng mong ước
được cận kề, được thành chồng vợ đã như thứ phép mầu, làm nàng sinh động hơn,
lung linh hơn trong mắt chàng trai ở đợ. Buổi chiều hôm ấy Chàng trai nói nhỏ
vào tai cô gái, tối xong việc, tôi đợi nhà bên tường thánh đường nhé. Nàng bồn
chồn không biết chàng ấy có việc gì mà có vẻ
bí mật thế ? Cả buổi chiều nàng chỉ mong trời mau tối. để được ra chỗ hẹn
với chàng. Cơm nước xong, thu dọn mọi việc xong, nàng đi chư chạy ra nơi hẹn, từ
xa nàng đã thấy người ấy đi lại có vẻ bồn chồn, trên vai chàng còn khoác một
cái đẫy nữa. bên bờ tường nhà thánh lễ,
chỗ này sát với những bụi cây làm hàng rào nên ít ai lui tới, nhưng lại là chỗ
hẹn hò kín đáo của hai kẻ yêu nhau. Chạy gần đến nơi, nàng đi chậm lại, chăm
chú nhìn cái dáng chắc nịch của chàng mà người nóng ran. Khi Ất có cảm giác là
lạ sau gáy, chàng quay lại thấy nàng đang đứng nhìn mình đắm đuối. Chàng chạy lại
nắm chặt tay nàng miệng nói : Tôi đợi mình mãi. Rồi chàng nói tiếp : Nhà ạ, tôi
phải đi đây, tôi tham gia Việt Minh, tôi nghe nói cũng sắp chiến thắng rồi, chắc
Tết này là cùng thôi, lúc đó bọn mình làm đám cưới, nhà đợi tôi về nhé. Tâm tư
nàng bấn loạn, mắt đỏ hoe rồi nàng ấp úng nói : Mình bỏ tôi đi thật ư ? Tôi
không biết Việt Minh là cái gì, tôi chỉ muốn mình ở lại đây với tôi thôi, rồi
chúng ta xin ông bà chủ cho làm đám cưới. Chàng vuốt mái tóc nàng rồi nói ân cần
: Nhà yên tâm đi, tôi đi Việt Minh là để cho chúng ta thoát khỏi kiếp làm tôi tớ
đấy, khi đuổi hết giặc Tây, chúng ta sẽ làm chủ cuộc đời. Nàng nghe những điều
lạ tai như vậy thì ngước mắt lên hỏi chàng : Nhà nói toàn những điều lạ tai thế
?. Thế nào là làm chủ cuộc đời ?. Chàng lại nhìn nàng ấu yếm nói : Thì cấp trên
của tôi nói thế ! Tiếng chuông nhà thờ lại ngân nga, nàng nghe sao nó buồn thế
nó không còn rộn ràng như ngày chàng ấy tỏ tình với mình. Nước mắt đang muốn
rơi. Chàng móc từ trong túi ra một vuông vải nâu được gấp kỹ, chàng dúi vào tay
nàng, rồi chàng nói : Nhà cầm mấy đồng tiền này, cứ cất đi, đợi tôi trở về
chúng ta làm đám cưới, à lúc đó tôi sẽ đưa nhà đi chợ phiên nơi đó có nhiều kẹo
bánh ngon lắm, tôi sẽ mua cho nhà cả gói kẹo dồi tha hồ nhà ăn, không phải thèm
thuồng nữa. Chàng nắm thật chặt tay nàng rồi chàng nói : Thôi tôi phải đi rồi,
đồng đội, anh em đang đợi tôi dưới bến. Tôi sẽ trở về cưới nhà, nhà yên tâm
nhé. Chàng buông tay nàng chạy một mạch xuống bến nước. Mắt chàng đỏ hoe, những
hạt nước mắt rơi từng giọt, từng giọt xuống áo ngực. Chàng xót thương người con
gái mồ côi , chỉ lo cô ấy không có mình rồi sẽ ra sao !. Nàng đứng chết chân
nhìn cái dáng chắc nịch đang vội vã chạy xuống bến sông. Nàng như hóa đá, nước
mắt tràn mi, chảy thành dòng xuống hai bên má. Nàng ngồi thụp xuống nức nở , miệng
nói đứt quãng từng câu : Nhà ơi, nhà ơi, mau về với em nhé ! (Còn nữa )
CẶP ẤM MẦU LAM KHÓI ! Truyện ngắn của : Lao quangthau . 7-9-2020
Phần 3
Bà cụ kể đến đây thì ngừng lại, bà nằm im như pho tượng, duy có hai bên
khóe mắt một chút nước đùng đục ri rỉ ra.Thùy cũng không cầm được nước mắt, để
cơn xúc động lắng xuống, Thùy nắm chặt tay bà cụ, cô nói rất nhẹ : Rồi sao nữa
hả bà? Ông ấy có giữ đúng lời hứa với bà không ? Bà cụ lắc đầu nhẹ rồi cố ghìm
cơn xúc động, có lẽ những nhớ thương bao năm nay bây giờ mới có dịp trải ra, Bà
thấy lòng mình có phần nhẹ nhõm hơn. Bà cụ nuốt những cơn xúc động vào trong
lòng rồi bà nói tiếp : Không cháu à. Bà đã đợi , đợi mãi, cả cho đến khi người
lính cuối cùng trở về. Bà đã đi hết Tuyên Quang, yên bái, Lào Cai, nơi nào bà
cũng vào các đơn vị để hỏi về tung tích của ông ấy, nhưng không có ai biết, có
lẽ lúc ông ấy ra đi làm Việt Minh, ông ấy đã lấy một cái tên khác. Thùy lại hỏi
: Rồi sau đấy bà sống thế nào? Bà có xây dựng gia đình với ai không ? Bà cụ lại
lắc đầu, miệng nói , nhưng thanh âm cứ như từ nơi khác đưa lại: Bà cứ ở vậy đợi
chờ ông ấy, bà cứ nghĩ rồi có ngày ông ấy sẽ tìm về với mình, ông ấy hứa rồi
mà. Rồi đến một bữa, bà cụ kể tiếp :
Sau những ngày miệt mài đi tìm chàng, nàng trở về ngôi nhà mới cất của
mình. Nước mắt cũng đã cạn dần sau mỗi lần đi tìm chồng. Sáng nằm trên giường,
mắt nhìn lên mái nhà, cô cứ nằm bất động như thế, rồi thiếp đi lúc nào không biết.
Cho đến lúc có tiếng gọi : Nhà, nhà ! Tôi về với nhà đây. Sáng choàng dậy ôm chầm
lấy người đàn ông mặc bộ quân phục mầu cỏ úa đã sờn gấu, trên đầu đội chiếc mũ
ca nô gắn ngôi sao đỏ nhỏ. Sáng mừng rỡ nói : Nhà về thật rồi, sao nhà đi lâu
thế ? Người ta trở về từ lâu lắm rồi, mà bây giờ nhà mới về ?. Chàng lính vẫn
khuôn mặt mặt rạng rỡ, thân hình răn chắc, chàng nói : Nhà thông cảm cho tôi,
tôi bị mắc kẹt lại với những đồng đội của tôi, họ ở lại đấy nhiều lắm, như một
cái làng vậy, ở mãi rồi thành mến thương nhau không nỡ rời. Tôi đành lỡ hẹn với
nhà, không thể cho nhà một đám cưới, nhưng tôi hứa ; Mỗi năm đến ngày này vào
tháng ngâu này tôi sẽ rủ anh em về với mình, chúng ta sẽ vẫn là vợ chồng, nhà
có chịu không ?. Sáng thấy mình đang ngồi trong vòng tay của chàng ở bên bờ tường
nhà của Chúa, rồi chàng chỉ tay ra phía góc bờ rào, nàng nhìn thấy rất đông anh
em mặc quần áo như chàng đang cười tươi và vẫy vẫy nàng. Nàng ấp mặt vào ngực
chàng, vẫn mùi mồ hôi nằng nặng năm nào. Nàng nói : Vậy chàng phải giữ lời hứa
với tôi đấy nhé, nhớ sang năm lại về với tôi. Chàng trai siết chặt vợ mình rồi
nói : Nhà ơi , tôi phải đi rồi, năm sau tôi lại cùng bạn bè về thăm nhà nhé.
Chàng buông nàng ra, rồi rất nhẹ Chàng bay đi về phía trước , đồng đội của
chàng cũng bay theo, nàng khóc tức tưởi nhìn theo cho đến khi tất cả chỉ còn là
những đốm sáng nhỏ như một bầy đom đóm bay chấp chới cho đến khi mất dạng. Nàng
chợt giật mình choàng dậy, nước mắt vẫn còn ướt mặt. Nàng thảng thốt. Vậy là
chàng ấy về báo mộng cho mình biết ư ? Thế là âm dương cách trở thật rồi !.
Nàng ôm mặt khóc, khóc tức tưởi cứ như chưa bao giờ được khóc. Rồi nàng tự an ủi;
Chàng ấy hứa sang năm lại về với mình mà. Nàng
im dần tiếng khóc, chỉ còn lại tiếng nức nở trong đêm thanh vắng, ngoài
kia tiếng con chim bắt cô chói cột đang kêu thảm thiết, nó cũng lẻ bạn như
nàng, rồi tiếng chim cũng xa dần, chỉ còn những con dế rền rĩ nỉ non như cùng
chia sẻ nỗi đau với nàng.
Bà cụ kể đến đây thì nhìn Thùy nói : Thôi cháu à, cũng muộn chúng ta ngủ
đi, chuyện của bà buồn lắm, sáng mai rồi bà đưa cháu đi gặp ông ấy, cùng những
người khác nữa. Thùy ôm vai bà cụ nói nhỏ : Cháu thương bà quá. Vâng mai bà cho
cháu đi với nhé.Cả hai cứ trằn trọc mãi, trở mình liên tục, Ngoài trời, tiếng
con ễnh ương kêu đến khó chịu, rồi dưới góc nhà tiếng con cóc nữa, thỉnh thoảng
nó nghiến răng nghe rợn cả người, rồi tiếng vỗ cánh bay hoảng hốt của những con
chim nữa, chắc chúng ngủ mơ nên giật mình rơi khỏi cành cây, cả khu rừng tạo
nên những thanh âm đầy ma quái và kì dị. Thùy lạ nhà, lại phải nghe những ấm
thanh đó, khiến cô cứ u u mê mê rất khó tả.
Này em gái ! Em từ đâu đến đây thế ? Mà có việc gì mà tìm chị ? Thùy ngỡ
ngàng thấy người đàn bà mặt trái xoan, nước da trắng hồng, đôi mắt to , có hai
hàng mi dầy cong vút, chiếc mũi thanh tú, cùng đôi môi đỏ mọng, dáng người nhẹ
nhàng, ngực nở khiến chiếc áo cánh ngắn mầu xanh nõn chuối muốn nứt ra, ngấp
nghé đường cong của cặp đào trắng muốt , chiếc quần vải ôm chặt cặp mông tròn
trĩnh tuy kín đáo mà đầy khêu gợi. Chị ngồi ngay cửa một cái lán được đan bằng
tre rất cầu kỳ, trước mặt chị là chiếc bàn cũng được đan bằng tre, trên mặt bàn
có một khay được ghép bằng cật tre già rất chắc chắn đã lên nước với khoảng chục
chiếc chén hạt mít mầu hoàng thổ. Chiếc ấm, trời ơi chiếc ấm ! Đúng là chiếc ấm
mà Nam Nhân đã tả cho Thùy . Chiếc ấm mầu Lam Khói, chiếc nắp ấm là hình một bầu
vú trinh nữ đầy mê hoặc. Chị chủ quán cỡ gần ba mươi, có lẽ chị ta chỉ hơn mình
mấy tuổi, chị mỉm cười nhìn Thùy thân thiện. Thùy nhìn chị rồi cất lời chào : Dạ,
em chào chị , em ở Hà Nội ạ. Một hôm, có một Nam nhân đến uống trà nơi quán của
em, người ấy có nói về nơi này, và có nói nên tìm gặp chị. Cũng may em gặp bà cụ
ngoài ngã ba , bà đưa em về nhà, hứa sẽ đưa em đến nơi em đang tìm. May quá em
đã được gặp chị. Người đàn bà từ lúc nghe cô gái giới thiệu ở Hà Nội, rồi nhắc
đến một Nam nhân. Người cô rúng động, nước mắt ngân ngấn muốn trào ra, chị ta
không còn nghe thấy Thùy nói gì nữa, người chị thần ra, miệng lẩm bẩm : Người ấy
! Phải rồi, người ấy ! Rồi chị nói trong nước mắt : Sao chàng để em đợi chờ mãi
thế, biết bao giờ chúng mình mới được gặp nhau đây ?. Này chị, chị ơi ! Thùy gọi
chị chủ quán , chị chủ quán giật mình thảng thốt rồi trở về với hiện tại, chị lại
mỉm cười nhìn Thùy. Chị chủ quán cất lời : Ngồi đây em, ngồi đây uống trà. Nói
rồi chị cầm chiếc ấm lên rót ra một chiếc chén đưa cho Thùy. Thùy cảm ơn rồi
hai tay đỡ chiếc chén đưa lên ngang mũi, thật lạ, tuyệt quá, trà hương bưởi đây
mà. Thùy nhấp một ngụm, bỗng chốc mắt cô như sáng hơn, trí óc tỉnh táo hơn,
hương thơm thật kì ảo, nước trà cũng thật lạ, cũng chát đắng đấy, nhưng vị ngọt
thì đọng lại trong miệng lâu hơn, Thùy có cảm giác như tất cả hương vị của trời
đất nó được quy tụ lại trong chén trà này.
Chị chủ quán thấy Thùy ngẩn ngơ, hồn như đang rong chơi đâu đó mới cất
tiếng : Em thấy trà của chị thế nào ? Dạ, thật tuyệt chị ạ ! . Thùy vội trả lời
chị chủ quán. Chị chủ quán tự giới thiệu, Chị tên Mẩy, mở quán ở đây nhiều năm
rồi, rồi chị chỉ tay xuống phía bến sông.
Đấy, cứ hàng năm vào tầm này là người đi xa tứ xứ lại trở về đây trẩy hội.
Thùy thấy người về mỗi lúc một đông, có vài nam nhân ăn mặc như thời cũ tiến về
quán của chị Mẩy, từ xa họ đã réo tên chị, mọi người hân hoan chào hỏi nhau. Thùy
chợt ồ lên một tiếng, mắt nhìn không chớp vào cây gạo hai thân ngay sát bến
sông. Cô thốt lên : Đẹp quá ! Chị chủ quán nhìn theo hướng mắt của vị khách ,
cô chợt hiểu liền nói : Cây gạo đó lạ lắm em ạ, nó chỉ nở hoa vào đúng dịp lễ hội
của làng thôi, em thấy không ? Cả một góc trời đỏ những bông hoa mầu máu, chúng
liên kết lại nhìn rất kì dị, lại đầy mê hoặc, em nhìn xuống dòng sông đi, mầu đỏ
in xuống đó, mặt nước nhìn như dòng sông máu vậy. người lạ nhìn nó thì cảm thấy
bất an, nhưng người dân vùng này thì mê mẩn với nó đó em, bởi mỗi năm cây gạo
đó nó chỉ nở có một lần vào dịp này thôi. Chị chủ quán nói tiếp : Em cứ đi tham
quan đi, rồi quay lại đây. Tối chị em mình hàn huyên tâm sự. Thùy đáp lại : Dạ,
em xin phép vào trong làng xem họ rước kiệu ạ. Vì Thùy nghe người làng đang
kháo nhau trong làng đang có hội rước kiệu. Trước mặt Thùy, nam thanh nữ tú áo quần
đủ mầu sắc , có cô mặc áo mớ ba mớ bẩy, tất cả cứ như một cánh đồng hoa sặc sỡ,
hòa mầu sắc cùng đám hoa gạo, cả một vùng trời như sáng bừng lên thật rực rỡ.
Thùy rảo bước, chưa kịp vào làng đã thấy đám trai tráng đang chạy như bay, trên
vai họ là chiếc kiệu Thành Hoàng được phủ vải điều rất đẹp đang lướt rất nhanh,
mặc đám thanh niên khênh trên vai đang cố theo kịp chiếc kiệu, chiếc kiệu hướng
về phía cây gạo đôi rồi nó quẩn một vòng quanh cây gạo, vừa lúc hoa gạo rơi lộp
bộp rồi như một đàn cá lớn quẫy cùng một lúc vậy, Hoa trên cây đồng loạt rơi xuống
nước, một mầu đỏ bất tận rung rinh kín mặt nước như chào đón chiếc kiệu, khi
chiếc kiệu lướt lên quay về phía làng thì cả một khúc sông đang lừ đừ trôi,
chúng như biến thành một thảm máu, Tao nhân mặc khách đứng ngẩn ngơ nhìn theo
dòng sông máu chảy từ từ rồi xa hẳn bến nước, có nhiều người đứng ngẩn ngơ, mắt
đỏ hoe như nuối tiếc. Thùy thấy trong lòng dậy lên nỗi buồn, cô quay bước về
quán của chị Mẩy.
Mẩy thấy Thùy mê mẩn ngắm chiếc ấm mầu Lam khói chị liền nói : Em có vẻ
muốn khám phá chiếc ấm này thì phải? Thùy mỉm cười với chị chủ quán rồi đáp lại
: Dạ chị, chẳng là em có một quán trà ở Hà Nội, ngày em thuê căn nhà đó, chủ
nhân ngôi nhà có tặng em chiếc ấm cũng mầu này. Mẩy ngạc nhiên quá liền nói :
Có phải trên nắp ấm, chỗ cái núm là hình con ve sầu phải không em ? Ủa sao chị
biết vậy ? Mẩy mắt sáng lên nhưng rồi ánh mắt lại chùng xuống. Cô cất tiếng nói
; Thì trên đời này chỉ có hai cái thôi mà, cái đó là cái đực, còn cái đây là ấm
cái. Ngày trước bố chị là người mê trà lắm , cả một vùng này ai cũng biết đến
ông. Ngày xưa trà ở đây nó mọc tự nhiên chứ không phải trồng như bây giờ đâu. Rồi
ông muốn làm một cái ấm cho riêng mình, ở dưới Phú Thọ có một mỏ cao lanh có mầu
rất đẹp , bố chị về đấy chọn chỗ cao lanh ưng ý nhất rồi mang về đây. Ngay sáng
hôm sau đợi mặt trời ló lên từ đằng đông, sương trên cây đã ráo hết, ông ra cây
bưởi chọn những bông hoa vừa hé miệng, ông hái chúng về, ông cẩn thận đặt trên
chiếc đĩa sứ to, ông tách những cánh và đầu nhụy ra riêng một chỗ, sau đó ông đổ
nó vào chỗ cao lanh ông mang về, nhào đều cho nhuyễn rồi ông làm ra hai cái ấm
này, ông bảo làm hai cái cho nó có âm
dương, hợp với phong thủy, hợp với trời đất, ông cẩn thận nung nó rất cầu kỳ.
Sau đó ông mới mang ra pha trà thử. Mà lạ lắm em, chỉ cần đưa chiếc ấm lên mũi ngửi
nó đã thoang thoảng mùi hương hoa bưởi rất tinh khiết rồi, em nhìn kĩ mà xem,
trong lòng chiếc ấm còn có cả hình những cánh hoa bưởi đó, đây này, phía ngoài
có những chấm vàng ly ti, là nhụy hoa bưởi đó em. Từ lúc làm ra đôi ấm này, bố
chị cảm thấy mãn nguyện lắm,nhiều người trong vùng nghe nói về đôi ấm này, tìm
đến xem, rồi họ đòi mua, họ trả giá nào ông cũng không bán, và cũng không làm
thêm cái nào nữa.
Thùy nghe chị chủ quán kể, vỡ dần câu chuyện, cô hỏi chị chủ quán : Thế
rồi sao nữa hả chị? Sao còn có một chiếc này ? Mẩy ngậm ngùi kể tiếp : Mấy năm
sau bố chị mất sau một trận cảm, chị cảm thấy hụt hẫng, lòng nặng trĩu mỗi khi
nhìn thấy cặp ấm đó, chị cứ có cảm giác mắc lỗi với bố chị, giá chị quan tâm đến
ông ấy hơn, chưa chắc ông ấy đã mất. Vậy là chị cất cặp ấm đó vào trong Rương,
nghĩ sẽ không bao giờ mang nó ra nữa, rồi một ngày : Hôm đó tầm xế trưa có một
nam nhân dáng thư sinh, cao ráo, ăn mặc kiểu thành thị ngập ngừng nơi cửa quán
của chị, chị mới nhìn thấy Nam nhân đó, lòng đã chao đảo, bồi hồi khó tả lắm,
chị lúc đó cũng rất lãng mạn, chị nghĩ ngay đến chàng công tử cưỡi Bạch Mã xuất
hiện, Nam nhân đó đẹp lắm. Chị đang lúng túng thì anh ta cúi người chào chị rồi
ngồi xuống ghế. Miệng nở nụ cười làm chị thốn tim. Nam nhân ấy nói : Xin chào
cô chủ quán xinh đẹp, từ xa tôi đã ngửi thấy mùi hương thơm của hoa bưởi lan ra
từ đây rồi, quả là lời đồn không sai. Nghe Nam nhân nói đến đó, lòng chị càng
thẹn thùng, chị mới ấp úng bảo : Dạ thưa , Người từ đâu đến mà nói những lời
văn hoa làm rối lòng kẻ khác vậy ạ ? Nam nhân đó mới cười ra tiếng, tiếng cười
trong trẻo cất lên, chị có cảm giác như cả một góc trời bỗng chốc bừng sáng.
Nam nhân đó nói lại : Không dám , không dám , chỉ vì muốn được thưởng thức chén
trà Hương bưởi của nàng mà tôi lặn lội đến đây, xin nàng nhủ lòng thương tới kẻ
hèn này mà mở lòng cho kẻ hèn được thưởng thức. Trời ơi Nam nhân này nói được
thưởng thức trà mà bao hàm bao ý tứ ở trong đó, chị thẹn đỏ mặt, đứng dậy đặt ấm
nước , rồi mở bọc trà, bóc mấy lần lá chuối khô đến khi những cánh trà có mầu
hơi mốc, xoăn tít hiện ra, Nam nhân làm mặt quan trọng, hít hà không thôi. Rồi
anh ta nói : Tuyệt quá, tôi chưa được thấy mùi hương này bao giờ.
Khi cầm trên tay chén trà chị vừa trao, Nam nhân đưa lên ngang mũi,
khuôn mặt dãn ra, anh ta ngửi chúng như không muốn chút khói đó bay tản đi mất,
rồi nhấp một ngụm, để chút nước trà đó chảy dần xuống cổ họng , anh ta mới nói
: Tuyệt, thật tuyệt, ước gì ngày nào tôi cũng được thưởng thức thứ trà từ chính
tay nàng pha. Mẩy nghe Nam nhân nói vậy thì trong lòng rộn rã, cơ thể rạo rực,
nàng có cảm giác như Nam nhân kia đã lấy trọn trái tim, cùng thân xác của nàng
rồi. Nàng cất tiếng , cái giọng hơi lơ lớ của người Dao ít đi ra ngoài : Dạ
thưa quý anh, em rất sẵn lòng phục vụ quý anh, em mong anh hàng ngày qua quán
em ủng hộ. Nam nhân nghe nàng nói vậy thì vui ra mặt, chàng nói : Vâng trong đợt
khảo sát mấy ngày này , chắc ngày nào tôi cũng đến làm phiền cô em quá. Nói đến
đây chàng chợt rúng động, tiếng chuông nhà thờ thánh thót vang lên, tiếng ngân
như những dải lụa mầu vàng bay chới với lên cao. Nam nhân chợt nhìn về nơi phát
ra tiếng chuông nhà thờ đó, rồi chàng thốt lên : Tuyệt vời, chốn này như bồng
lai tiên cảnh vậy, cây hoa gạo , rồi bến sông, con đò, tiếng chuông chiều , rồi
cái quán thơ mộng với cô chủ quán xinh đẹp này, ôi tuyệt quá, tất cả tạo thành
bức tranh tuyệt đẹp. Tiếng chuông nhà thờ vẫn vang lên thánh thót. Nam nhân buột
miệng : Tiếng chuông nhà Thờ làm ta nhớ nhà quá, ngay gần nhà ta cũng có một nhà
thờ cổ kính , thủa bé ta vẫn hay vào đó xem mọi người hát thánh lễ. Tuy chàng
nói nhỏ nhưng Mẩy nghe thấy hết, nàng cảm động thấy người trai có tâm hồn lãng
mạn như vậy. Mẩy lúc này mới nói : Vâng thưa anh, quê em đẹp lắm, chắc anh cũng
đã thấy thác bạc, núi Ngọc, thấy chợ ngọc, chợ ngà, cả một vùng đẹp như tiên cảnh
anh ạ. Nam nhân chợt thở dài nói như chỉ một mình mình nghe: Tiếc quá, chỉ ít
lâu nữa thôi, nhà Thờ , rồi chùa chiền, đền thờ miếu mạo… Sẽ chỉ còn lại trong
ký ức… Khuôn mặt Nam nhân bỗng chùng xuống, đôi mắt buồn vô hạn. Mẩy nghe Nam
nhân nói vậy thì vội hỏi : Qúy anh vừa nói gì ạ ? Tại sao chỉ còn lại trong kí ức
? Nam nhân thấy mình hơi lỡ lời, nhưng đành nói : Vậy cô em chưa biết gì sao ?
Chúng tôi đang đi khảo sát để làm thủy điện , chỉ mấy năm nữa thôi, nơi này sẽ
là hồ chứa nước. lúc đó chẳng còn gì cả, chỉ còn phế tích trầm mặc nằm im dưới
đáy hồ thôi. Mẩy nghe Nam nhân nói mà rúng động, chợt cô nấc lên, nước mắt trào
ra, hai tay ôm mặt, cô thảng thốt : Trời ơi, chẳng lẽ mồ mả cha mẹ, non xanh
núi biếc này sẽ mất vĩnh viễn ư ? Bao kỉ niệm xũng bị xóa nhòa hết ư? Nam nhân
thấy cô chủ quán khóc nấc vội hối lỗi loay hoay không biết dỗ nàng ấy thế nào.
( Còn nữa )
CẶP ẤM MẦU LAM KHÓI ! Truyện ngắn của : Lao quangthau . 7-9-2020
Phần 4,
Ngày nào cũng mấy lần, Nam nhân kiếm lý do để vào quán trà của Mẩy, mới
đầu là cảm nhau vì phong cách, vì tài năng , vì sắc đẹp, rồi thì đầu mày cuối mắt,
cả hai đều cảm thấy như đã thuộc về nhau từ kiếp nào !. Họ ở bên nhau vạn vật
như lung linh hơn, bầu trời như xanh cao hơn. Nhưng thời gian là một thứ xa xỉ
mà Thượng Đế không muốn cho con người được trọn ý bao giờ, khi đã bén mùi , đã
quen từng điệu bộ giọng nói của nhau thì cũng là lúc đợt khảo sát đã xong. Đêm
cuối cùng Nam nhân ở lại quán của Nàng. Hai người đối ẩm với nhau dưới ánh đèn
dầu, ngoài trời ánh trăng lưỡi liềm lấp ló sau những đám mây mầu xám bạc. Những
con gió chạy quẩn quanh trong thung, bầu không khí trong lành đầy thơ mộng. Ngập
ngừng mãi, rốt cuộc Nam nhân cũng phải lên tiếng : Mẩy à, anh phải về cơ quan rồi,
bọn anh bắt đầu vào chiến dịch, chỉ nay mai thôi, công trường sẽ khởi công, lúc
đó chắc sẽ ít được gặp nhau, nhưng lòng anh sẽ luôn hướng về em. Rồi Nam nhân vừa
nói vừa cười : Anh không được uống trà của em chắc sẽ nhớ lắm. Mẩy cầm tay Nam
nhân nói : Em chắc cũng nhớ anh nhiều lắm, không được nhìn thấy anh nửa ngày
lòng em đã không yên rồi, đằng này hàng ngày, hàng tháng… Nam nhân cầm bàn tay
nữ nhân nắm chặt, trong lòng rộn lên cảm giác rạo rực thật khó tả. Chàng chỉ muốn
kéo nàng vào trong lòng mình rồi ôm thật chặt, nhưng chàng không đủ can đảm làm
việc đó.
Nàng rút tay ra khỏi đôi tay rắn rỏi của Nam nhân , cô nhìn chàng rồi mỉm
cười nói : Anh đợi em một chút, nói rồi cô đứng dậy đi vào trong, mở chiếc
rương cũ ra, cô lần lấy chiếc hộp đã cất kĩ, định không bao giờ mang nó ra nữa.
Cô ấp nó vào ngực, rồi nhẹ nhàng lại gần Nam Nhân cô cất tiếng : Anh à, đây là
chiếc ấm mệnh hỏa của cha em, từ lúc cha em mất, em cất nó đi, giờ đây em tặng
lại anh, mong anh luôn giữ nó bên mình, coi như luôn có em bên cạnh vậy. Nam
nhân tỏ ra mừng rỡ đón lấy nó từ tay nàng. Nam nhân cảm động nói : Cảm ơn em lắm,
nhất định anh sẽ dìn giữ nó như tính mạng của anh vậy. Nàng cười rạng rỡ rồi
nói : Em đã chuẩn bị cho anh trà rồi, cứ hết em lại gửi lên cho. Nam nhân gật đầu,
chàng nhìn nàng với lòng biết ơn, rồi chàng nói khẽ : Bọn mình đi nghỉ một chút
đi em, anh thấy em cũng mệt rồi. Nàng ngẩn ngơ nhìn vào chiếc giường ý bảo với
chàng ; Có một chiếc giường ngủ sao đây ? Nam nhân hiểu ý liền nói : Em yên tâm
đi, em sẽ nằm trong, anh chỉ ghé lưng một chút bên ngoài thôi. Nàng cười e thẹn
nói : Dạ vâng. Hai người lên giường, không ai nói với nhau câu nào, cả hai nằm
ngửa mắt đều nhìn lên nóc nhà, Chàng tâm tư bấn loạn, lúc này chàng chỉ muốn
lôi nàng lại bên mình rồi siết chặt để thỏa lòng thèm muốn được ân ái với nàng,
nhưng chàng lại không đủ can đảm nên cứ nằm ngay đơ như vậy. Mẩy nằm ở trong,
trong lòng trộn rộn khó tả, cơ thể như muốn nứt toác ra, mùi cơ thể của Nam
nhân tỏa ra làm nàng không chịu nổi, nàng muốn lao vào vòng tay của chàng mà
hít à, mà hôn lên khuôn mặt của chàng, mà gắn môi nàng vào cái miệng mọng đỏ đầy
gợi cảm đó, ngực nàng râm ran như có bao nhiêu con kiến đang gặm nhấm, rồi cả
nơi cửa động của nàng, chúng chỉ chực vỡ òa, vậy mà chàng cứ nằm bất động như vậy,
chẳng lẽ mình lại chủ động lại bên chàng ư ? Vậy thì còn gì là giá trị của mình
nữa. Nàng chợt buông tiếng thở dài, cả hai cứ trằn trọc như vậy, không ai nói với
ai lời nào.
Tiếng chim rừng đua nhau hót, tiếng ríu rít của lũ chim sâu ngay bên
ngoài khung cửa sổ, từ xa vọng lại tiếng chuông nhà thờ, vạn vật đang vội vã hồi
sinh sau một đêm dài ngủ lịm. Nam nhân giật mình tỉnh giấc , chàng nhìn vào
trong không thấy nàng đâu liền ngồi bật dậy ngơ ngác ngó xung quanh. Bên ngoài
cửa liếp, tiếng sột soạt phát ra, Mẩy húng hắng ho, nàng nhìn vào trong thấy
Nam nhân đã dậy liền tươi cười hỏi : Anh mới dậy hả ? Em phải đi sớm mới kịp
hái trà , chứ để hừng dương lên là hỏng hết, không còn hương vị đặc biệt của nó
nữa. Nam nhân sửa soạn rồi lên tiếng : Anh phải về cơ quan rồi, anh sẽ xuống
thăm em ngay sau khi có dịp. Nàng vội vã buông gùi chè mới hái, đi vội vào
trong mang ra một bọc trà, rồi cầm chiếc hộp đựng ấm, đưa cho chàng, Nam Nhân
cho vào ba lô xong buộc chặt lại, bất chợt chàng buông ba lô , đưa tay kéo nàng
lại, chàng ôm nàng thật chặt, chàng cúi xuống đặt đôi môi của mình đang róng
như hòn than lên đôi môi mọng đỏ của nàng , một thứ mật ngọt cùng cảm giác thèm
khát bấy lâu hòa quyện vào nhau, nó như hương của trời đất, như vị thơm của những
bông hoa rừng. Hai người trao nhau nụ hôn đầu tiên trong đời, cơ thể nàng muốn
khụy xuống, tấm thân run rẩy như không còn đứng vững được nữa. Thân thể mạnh mẽ
đầy cảm xúc của chàng ôm chặt nàng, ép nàng sát vào cơ thể của mình, nàng cảm
nhận rõ thứ nam tính đang ép vào bụng dưới của nàng. Nàng hoảng hốt rời khỏi đôi môi của chàng, Chàng thấy mình hơi
quá liền buông nàng ra. Mẩy lại thấy tiếc, lại thấy thèm muốn được chàng âu yếm
thêm, nhưng rồi nàng lấy hết tâm lực lùi lại một bước, nàng nói lắp bắp, mắt bắt
đầu đỏ hoe : Anh đi thôi kẻo muộn, em sẽ chờ đợi anh. Nam nhân có chút hối lỗi
liền nói : Mẩy à, xong công trình này, anh sẽ đưa em về quê anh, rồi chúng mình
sẽ thành vợ thành chồng , em chấp nhận không ? Mẩy sung sướng trả lời chàng :
Vâng, em sẽ đợi ngày anh đưa em về quê anh, em sẽ làm vợ anh, rồi chúng mình sẽ
có một đàn con... Chàng cúi xuống hôn vào mái tóc của nàng, rồi nhẹ nhàng lách cửa rảo bước đi, chàng biết ở
dưới kia, đám bạn cùng cơ quan đang sốt ruột đợi chàng để cùng lên công trường.
Câu chuyện của chị chủ quán kể làm Thùy xúc động , cô thấy mối tình của
họ đẹp quá, ngày trước họ yêu nhau như vậy không như thời nay, sẵn sàng trao
thân cho nhau, sẵn sàng đi đến hết mình. Thùy cứ tự vấn ; Vậy thì cái thủa nam
nữ thụ thụ bất thân đó hay thời của Thùy đáng sống hơn? Câu hỏi tưởng chừng đơn
giản đó mà Thùy không có câu trả lời. Hai chị em không nói với nhau lời nào nữa.
Thùy quay mặt vào trong, rồi thiếp đi lúc nào không biết. Khi cô tỉnh dậy đã thấy
Chị chủ quán đang cho than vào bếp để đun nước pha trà, trên chiếc khăn mỏ quạ
mầu xanh non có những sọc trắng vàng đỏ, còn vương những hạt sương, mấy chiếc
lá nho nhỏ còn dính trên đấy, chúng cũng ướt sũng nước. Thùy vội hỏi : Ủa chị vừa
đi rừng về hả ? Sao chị không gọi em đi cùng ? Mẩy nở nụ cười hiền hậu, cô nhìn
Thùy nói : Em là gái thành phố làm sao mà lội rừng như chị được, em dậy đi làm
vệ sinh rồi ra đây chị chỉ cho. Thùy vào trong chỉnh trang lại dung nhan rồi đi
ra ngồi bên chiếc bàn. Chị chủ quán đang súc trà, rồi rưới nước sôi ra ngoài ấm,
chị bắt đầu nói : Em à, chị với em như có duyên tiền kiếp vậy, chị gặp em là thấy
thân thiện có tình cảm ngay, chị sẽ chỉ cho em cách ướp các loại hoa của núi rừng
với trà, nhất là trà hương bưởi. Em muốn có trà ngon nhất phải tự tay mình đi
hái, phải dậy từ lúc mặt trời chưa ló trên đỉnh núi. Em hái những búp mới lên
chồi, cứ khoảng hai lá ngọn một lá đơn là được, lúc này nhựa của cây chè lên đầy
đặn nhất. em cho ngay vào trong gùi, chỉ hái khi mặt trời chưa lên, mang về em ủ
trong bóng tối cho men nó lên đều rồi sao khô, kĩ thuật sao chắc em nắm được rồi.
Còn các loại hoa để ướp trà nhất là hoa bưởi, em phải đợi khi ánh mặt trời mới
lên làm khô lớp sương sớm mai, lúc đó em hái ngay những bông vừa mới nở phải là
những bông hoa còn nguyên vẹn, không xước xát. Em mang về ướp ngay cùng với
trà, nhớ là bọc trong những lớp lá chuối khô thì giữ được nguyên hương vị tươi
ngon của nó, mà bảo quản cũng được lâu hơn. Em này, nếu thật sự chị em mình có
cơ duyên với nhau...
Dậy đi cháu gái, trời sáng bảnh rồi, đi cho kịp kẻo trưa mất. Bà cụ lay
vai Thùy giục dậy. Thùy chợt bừng tỉnh, cô chưa định hình được mình đang ở đâu
? Trong hoàn cảnh nào ? Vì trong tâm trí của cô, cô vẫn còn đang nói chuyện dở
với chị chủ quán trà! Bà cụ cười nói : Cháu vừa mơ một giấc mơ đẹp phải không ?
Bà thấy cháu vẫn đang tiếc rẻ. Thùy lúc này đã hiểu ra liền trả lời bà cụ : Dạ
vâng, cháu vừa mơ được gặp chị Mẩy, người ướp trà hoa bưởi nổi tiếng vùng này ạ.
Bà cụ sững người, bần thần một lúc cụ mới nói : Vậy là cơ duyên tiền định rồi,
có sự run rủi đưa cháu đến với bà, với mảnh đất này. Thôi chuẩn bị đi nào, vừa
đi bà sẽ vừa kể cho cháu nghe những bí mật của vùng rừng núi này. Thùy chuẩn bị
xong liền theo chân bà cụ. Thùy đưa tay định cầm đỡ tay nải cho bà cụ, bà cụ gạt
tay nói : Nó nhẹ lắm, bà mang được mà. Hai bà cháu đi ra bến đò, bà cụ vừa đi vừa
nói : Chúng ta đang đi về phía lòng hồ đó cháu, phía bên trái này là hướng Yên
Bái, Lào Cai, còn bên tay phải này là Tuyên quang cháu ạ. Hồ thủy điện nằm ở giữa. Nói đến đây cả hai cũng
vừa vặn đến bến đò. Một người đàn ông mặc bộ đồ bộ đội đã bạc mầu, đội chiếc mũ
cối cũng đã bạc, khuôn mặt khắc khổ, chắc cũng gần sáu mươi. Ông cất tiếng :
Con chào cụ, vậy là đã tròn một năm rồi đấy ạ, cụ năm nay vẫn còn khỏe lắm. Bà
cụ trả lời : Không dám, chào ông, ông vẫn khỏe chứ ạ ?. Ông lái đò trả lời : Dạ
vâng thưa bà, con vẫn vậy, từ sáng con vẫn ngóng cụ đấy ạ, con không dám chở ai
khác, sợ không gặp được cụ.
Người đàn ông giữ thăng bằng để bà cụ và Thùy đi xuống đò, hai người ngồi
vào trong mui, có tấm gỗ bắc ngang. Người chủ đò bắt đầu xỏ hai bàn chân vào hai
mái chèo, Thùy thấy lạ lẫm thú vị, ông ấy chèo khéo quá, bai chân của ông đưa
ra lại thu vào nhịp nhàng rất đẹp. Thùy mê mẩn nhìn đôi chân như múa của ông
lái đò. Bà cụ bắt đầu đằng hắng rồi nói : Cháu này, đêm qua cháu mơ gặp chị Mẩy
là có thật đấy, câu chuyện buồn lắm, hồi ấy bà cũng chỉ hơn cô ấy ít tuổi thôi,
cũng gần nhà cô ấy, hai người đàn bà lỡ dở cứ dựa vào nhau lúc tối lửa tắt đèn,
nên bà hiểu hết. Người đàn ông ấy là kỹ sư, ông ấy đã từng du học ở Pháp về,
nhà cũng ở Hà Nội đấy. Lúc chia tay hai người hẹn thề như vậy mà rồi cách trở
cho đến bây giờ. Ông ấy hy sinh trên công trường cùng mấy chục người nữa, thây
xác lẫn vào với cát bụi, bây giờ ông ấy yên nghỉ ở nơi nghĩa trang của đập thủy
điện này, tuy có bia mộ của ông ấy, nhưng chỉ là tượng trưng thôi. Còn cô Mẩy,
cô ấy hàng ngày vẫn cứ đợi chờ, hết mùa hoa bưởi này đến mùa hoa bưởi khác. Hết
mùa hoa gạo này, lại đến mùa hoa gạo sau , cô ấy cứ nhìn về nơi bến sông đến khi
Hoa gạo rơi thành một thảm đỏ như mầu máu, lững lờ trôi đi khuất dần, cô ấy lại
lau nước mắt, cũng nhiều nam nhân lại quán của cô ấy, muốn kết thân giao, nhưng
cố ấy nhất quyết từ chối. Rồi đến khi Thủy Điện làm xong, Thác Bạc , chợ Vàng,
chợ Ngọc… Đã chìm sâu dưới đáy hồ, bao nhiêu những nhà Thờ, đền đài miếu mạo trở
thành phế tích. Cô Mẩy cũng phải ra đi, bỏ lại cái quán mà hàng ngày cô ấy vẫn
hướng mắt xuống bờ sông, mong ngóng người thương trở lại.
Cô ấy cũng không sống được bao
lâu, có lẽ do đau khổ quá, cứ mòn mỏi dần, cô ấy mất đi. Cả vùng ai cũng tiếc
thương cô ấy. Bà cũng buồn một thời gian dài mới nguôi ngoai. Lòng nặng trĩu,
Thùy nghĩ lại giấc mơ đêm qua, chị ấy thật đẹp và tài hoa vậy mà bạc mệnh, duyên
kiếp của họ thật trân chuyên. Lúc sống cũng không được cận kề bên nhau, lúc
thác hồn cũng vương vất mỗi kẻ một nơi. Thùy chợt nhớ đến câu chuyện của bà cụ,
cô liền nắm tay bà rồi hỏi : Thưa bà , còn chuyện của bà nữa, bà chưa kể cho
cháu nghe hết ? Bà cụ mỉm cười, những vết thời gian làm khuôn mặt bà thêm khắc
khổ, đôi mắt cứ xa xăm rượu vợi, bà đang thả hồn vào trời nước mênh mông, có lẽ
bà đang tìm chỗ đã hẹn với ông chăng? Bỗng chốc dưới mặt nước sao động, chúng
như trào dâng, một vầng đỏ thắm từ dưới lòng hồ đang chấp chới muốn thoát lên
khỏi mặt nước. Thùy thoáng rùng mình, cô bíu chặt cánh tay bà cụ, miệng không
thốt lên lời, cô chỉ lắp bắp rồi ra hiệu cho bà cụ nhìn xuống mặt nước. Mắt bà
cụ bỗng chốc sáng rực lên, cụ vui mừng thốt lên: Hoa gạo ông ơi, ông lái đò giật
mình nhìn theo hướng mắt của bà cụ. Ông cũng lơi mái chèo, con đò cứ dập dềnh chao
đảo, phía dưới là một dòng sông hoa gạo đỏ tươi rực lên, chúng dập dìu kết
thành một dòng sông đỏ mầu máu. Bà cụ vui sướng cất lời : Ông ơi, Hoa gạo rụng
đó! Người ta đang làm lễ rước thành Hoàng đó, bỗng chốc tiếng chuông nhà thờ
ngân nga vọng đến, rồi tiếng dàn đồng ca của nhà thờ đang hát bài mừng thánh lễ,
rồi tiếng hò reo như dậy đất, cả khúc sông vang động đủ thứ âm thanh. Chúng âm
âm, u u khiến Thùy cũng không hiểu những thứ âm thanh đó từ đâu vọng lại, hay từ
dưới đáy hồ đưa lên? Bà cụ với người đàn ông mặt đang hân hoan, người nhấp nhổm,
họ như đang hòa vào cùng với lễ hội. Thùy hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên
khác, cô cứ bám chặt hai bên thành con đò, chỉ sợ nó bị lật. Thế rồi tiếng
chuông nhà thờ cũng xa dần, tiếng cười nói cũng lặng dần, dòng sông máu cũng đã
trôi đi, vệt cuối cùng ánh rồi hết hẳn. Thùy không hề để ý, bà cụ lúc nãy vừa
vui sướng hưởng ứng cùng những thanh âm rộn rã, nhưng tay bà cụ vẫn đưa vào tay
nải lấy từng nhúm tiền rải xuống dòng sông, đến Khi Thùy phát hiện ra, cô chỉ còn
nhìn thấy những tờ vàng mã cuối cùng bị gió cướp lấy từ tay bà cụ rồi cứ cuốn
đi, nó như nhẩy múa trước mắt ba người, bay được một đoạn khá xa , chúng chao
liệng một vòng rồi từ từ rơi xuống mặt nước, chúng nổi dập dềnh rồi chỉm hẳn.
Ông lái đò và bà cụ thẫn thờ tiếc nuối, đôi mắt buồn vời vợi, người đàn ông lên
tiếng trước : Thôi bà đừng buồn, lại đợi đến năm sau vậy. Bà cụ gật đầu, mắt
loang ánh nước, bà cũng nói theo : Ông nói chí phải, lại đợi năm sau vậy, chúng
ta vẫn cứ phải mòn mỏi nơi trần thế này, người xưa thì mịt mù, cảnh cũ thì đã
thành hoang phế nơi đáy hồ. Giá như… Bà cụ nói đến đó thì chợt im lặng. Cụ nhướng
mắt về phía bờ rồi nói với ông lái đò: Chuẩn bị đến rồi đó ông. Ông lái đò gật
đầu lên tiếng xác nhận: Vâng cũng nhanh cụ nhỉ, cụ và cháu cứ lên trên đó đi,
tôi sẽ đợi dưới này. Đò cập bến, Ông lái đò quăng chiếc dây vào gốc cây lộc Vừng
bên bến nước, rồi ông nhẩy tót lên trên bờ, cầm đầu dây kéo con đò sát bờ đất rồi
buộc nó vào gốc cây lộc vừng , gốc cây bị động rung lên, những bông hoa Lộc Vừng
đỏ thắm rơi ào ào xuống chiếc mũ của ông lái đò, mầu đỏ của hoa lộc vừng rụng
trải dầy như thảm đỏ nơi sát con đò. Ông tiến lại mũi đò giữ cho đò khỏi chòng
chành, một tay nắm tay bà cụ đỡ cụ lên bờ. Đến lượt Thùy, cô cất tiếng: Bác cứ
mặc cháu, cháu tự lên được, nói rồi cô lựa thế nhẩy lên bờ. Cô theo bà cụ leo
lên phía trên. Ông lái đò lấy dép ra lót rồi ngồi xuống mép sông , ông rút bao
thuốc lá Thăng Long mềm ra lấy một điếu, châm lửa hút. Ông chép miệng, vẻ mặt
buồn hiu , ông nói nhỏ vừa đủ cho mình nghe: Tội quá, sao đàn bà xứ này cứ chịu
cảnh cô đơn bạc phận mãi như vậy ?. Mắt ông ngân ngấn nước , ông đưa mắt nhìn
ra giữa lòng hồ, ông nhớ lắm những hình ảnh một thủa , nơi ấy, một thời nó như
cõi thần tiên nơi trần thế, vậy mà giờ đây mênh mông là nước, ông nhớ đến người
vợ yểu mệnh của mình, bà ấy ra đi trong một ngày mưa gió, có lẽ bà ấy nhớ đến
thắt lòng những hình ảnh xưa cũ, thỉnh thoảng bà lại thẫn thờ tự chèo thuyền ra
đoạn mà ngày trước, mỗi lần lễ hội bà mừng vui đến mất ăn mất ngủ, buổi trưa đó
bà cũng hóng đến giây phút hoa gạo kết thành dòng sông dập dềnh muốn nổi lên mặt
nước, nhưng rồi người ta chỉ thấy chiếc thuyền của bà bơ vơ trôi lạc dần , còn
bà mãi mãi không trở về nữa.
Bà cụ đưa Thùy vào một nghĩa địa lọt thỏm giữa những vạt rừng thưa thớt,
nhưng những cây dại thì mọc chi chít che
cả lối đi, Hoa mua nở mầu tím lịm , chen lối mòn, bà cụ cuối cùng cũng lần đến
được một ngôi mộ, bà rơm rớm nước mắt, lấy tay xoa lên mặt bia cho mấy dòng chữ
hiện rõ ra. Vàng a Ất mất năm 19…đã hy sinh … Bà cụ nhìn Thùy nói : Nhà tôi đấy
cô, từ ngày biết chắc chắn ông ấy đã hy sinh, tôi nhờ huyện đội xây giúp cho
ngôi mộ trong nghĩa trang liệt sĩ này, để hàng năm có chỗ mà tưởng nhớ, mà
hương khói, vừa nói bà cụ vừa lôi bộ quần áo bộ đội, chiếc mũ cối, đôi dầy, đều
là vàng mã, rồi một xấp tiền vàng, ba gói kẹo dồi, năm bao thuốc lá. Bà thắp
hương lên cắm vào ngôi mộ rồi cắm ra xung quanh, Thùy cũng lấy từ tay bà ba nén
cắm lên mộ của ông. Bà cụ quay lại ngôi mộ chắp tay vái mấy cái rồi kéo Thùy ngồi
xuống đối diện với tấm bia, bà nói : Nhà à, như đã hẹn tôi lại đến với nhà đây.
Có đủ quần áo , tiền vàng, còn kẹo với thuốc lá nhà mời đồng đội của nhà nhé. Vừa
nói nước mắt bà dàn dụa, bà nói ngứt quãng: Nhà ơi, có lẽ tôi cũng sắp được về
với nhà rồi, tôi thấy mỏi mệt lắm rồi, cứ chờ đợi ngày ngâu để được gặp nhà khiến
con tim tôi cũng mòn yếu đi. Nhà đợi tôi nhé, rồi vợ chồng mình sẽ được ở bên
nhau mãi mãi nhà ạ. Thùy nghe đến đây, nước mắt cô chảy vòng quanh, cô ôm lấy
bà cụ, cô nói trong tiếng nấc nghẹn, bà ơi, con thương bà quá ! Sao mọi người cứ
chịu mất mát, cứ chịu khổ mãi như thế này chứ ?. Bà phải sống lâu với chúng con
chứ. Bà cụ vỗ vỗ tay lên tay Thùy bà nói : Cháu à, bà cũng đã sống đủ rồi, cái
gì phải chịu đựng, phải nếm trải cũng đã đến với bà hết rồi, bà cũng đã mỏi mệt
lắm rồi, bà không muốn ai thấy bà mỏi mệt thôi. Sống lâu, cứ còm cõi một thân một
mình nơi hoang lạnh, chồng con không có, người thân cũng không, chi bằng bà về
với ông ấy, lúc nào cũng có nhau có sướng hơn không !.
Bà cụ đứng dậy thắp tuần hương nữa rồi bà nói : Thôi, chúng ta chia tay
ông ấy đi, bà muốn đưa cháu đến gặp người này nữa. Thùy đứng dậy chắp tay vái
ba vái rồi cùng bà cụ hóa vàng, bà cứ lẩm bẩm : Nhà nhận cho tôi vui nhé, nếu
năm sau nhà không thấy tôi đến, tức là tôi đang đi tìm nhà đấy. Bà đứng dậy vái
ba cái nữa rồi ra hiệu cho Thùy đi theo mình. Hai bà cháu đi một quãng nữa thì
đến nghĩa trang dành cho những người đã hy sinh trong những ngày lửa đạn để xây
dựng đập thủy điện này. Bà cụ lần mần đưa Thùy đến một ngôi mộ, trên bia mộ có
dòng chữ : Trần văn A. quê Hà Nội, hy sinh ngày…Bà cụ lấy từ trong tay nải ra thẻ hương với xấp tiền
vàng , bà đặt lên rồi đốt hương, bà đưa Thùy một ít, hai người lau mộ phần rồi
cùng vái lậy. Bà cụ nói : Chắc cháu thắc mắc ngôi mộ này là của ai hả? Nam nhân
này là người mà Cô Mẩy ngày đêm mong ngóng đó, chẳng hiểu sao địa lý không hề
xa mà hai người như ở hai đầu sông khác nhau, sông cứ chẩy mà chẳng bao giờ chập
lại. Ngày trước khi cô Mẩy đã mất, tôi vô tình nghe được câu chuyện về nam nhân
người Hà Nội này, kể từ đấy, mỗi lần tôi đến thăm nhà tôi là tôi lại sang thắp cho
ông ấy nén hương, tôi biết cũng chẳng có ai hương khói cho ông ấy đâu.
Thùy thắc mắc về câu nói của bà cụ, cô hỏi : Bà ơi, sao bà nói hai người
họ ở hai đầu con sông khác nhau ? Bà cụ trả lời : Thì đấy, cháu không thấy à ?
Họ có xa nhau lắm đâu, nhưng kể từ ngày chia tay, hai người không hề gặp lại, rồi
cả đến khi chết họ cũng có được đoàn tụ đâu, năm nào cô Mẩy chẳng ngồi ở quán
ngóng người xưa, cho đến khi hoa gạo rụng thành con sông máu. Thùy chợt nhói
tim, trời ơi, sao con người ở đây sống kiếp trầm luân bể khổ vậy, ai cũng cứ
nén những nỗi đau trong lòng để rồi mong một ngày đoàn viên nơi cực lạc, chẳng
lẽ sống ở trên đời này khó lắm sao? Thùy thấy tủi lòng, thương cho những thân
phận nới xứ này !. Bà cụ quay qua, thấy Thùy đang thẫn thờ, mắt ngấn lệ, bà nói
: Cháu ơi, cháu lễ tạ đi rồi chúng ta về. Bà nghĩ mọi người hôm nay được gặp
cháu, họ sẽ mừng lắm đấy. Rồi mọi thứ sẽ tròn trịa tốt đẹp cả thôi. Nghe bà cụ
nói vậy, Thùy thấy có chút thắc mắc trong lòng, nhưng không tiện hỏi cho hết
nghĩa.
Hai bà cháu đã ngồi yên vị trên đò , con đò quay đầu về hướng cũ. Bà cụ lúc
này mới vỗ đầu rồi nói : Thôi chết cứ lấn bấn chuyện của tôi mà tôi quên mất
không hỏi thăm ông! Vậy cũng mấy giỗ bà nhà rồi ông nhỉ ? Dạ thưa cụ cũng cái
giỗ thứ sáu đấy ạ, ngày mai tôi cũng làm cái lễ rồi mang ra chỗ lúc nẫy nổi
sóng đó, cúng cầu cho bà ấy, tội quá bà ạ, chẳng thấy xác bà ấy ở nơi đâu, mấy
năm trước cháu cũng đi hết các vùng quanh lòng hồ để tìm manh mối mà không thấy
bà ạ. Bà cụ nói tiếp lời : Có lẽ bà ấy trở về chốn xưa với tổ tiên chăng? Thôi
ông cũng đừng buồn nữa, chúng ta sống trên đời cũng chỉ là sống tạm thôi, rồi lại
trở về nơi đang dang tay chờ đón chúng ta, nơi đó mới là cõi vĩnh hằng ông ạ.
Ông lái đò nghe bà cụ an ủi vậy thì cũng ra lời : Vâng bà, cháu cũng nghĩ vậy đấy
ạ, chứ cứ sống mòn mỏi lay lắt ở cõi trần gian như thế này cũng mệt mỏi lắm rồi
bà ạ, nhiều lúc cháu cũng muốn xuôi tay lắm. Thùy nghe hai người già nói chuyện
mà thấy hoang mang, thấy chạnh lòng; Chẳng lẽ con người ta cảm thấy sống trên
cõi đời này khổ ải vậy sao? Sao họ cứ muốn trở về nơi họ cho là vĩnh cửu, chẳng
lẽ nơi đó có sông mật, suối tiền thật ư ? Thùy cảm thấy hoang mang vô cùng. Hai
ngày ở trên này, cô ngộ ra được nhiều điều, hóa ra cuộc sống không đơn giản như
cô đang sống nơi phố thị, với miếng ăn hai bữa, rồi tối đến đếm những đồng tiền
cả ngày kiếm được, rồi rủ nhau đi ra phố ăn cái này cái kia, tối về nếu có chồng
có vợ thì làm chuyện mây mưa, chán, mệt thì ngủ đẫy giấc đến bảnh mắt hôm sau.
Cuộc sống ngày nào cũng vậy cứ nhàn nhạt như thế. ấy vậy mà ai cũng tự hào,
cũng cho mình là người thành phố , đang tận hưởng những thứ hạnh phúc nhất trên
đời. Có đi cô mới biết cuộc đời phải như những con sóng lớn đập vô bờ, phải như
những thảm hoa gạo đợi ngày lễ hội, đợi tiếng chuông nhà thờ ngân lên rồi trút
hết mình cùng giao hoan với trời đất, phải là những tình yêu ngóng đợi cả cuộc
đời, cả những linh thiêng ám ảnh với cội nguồn. Cuộc sống là những thứ gì đó thật
bí hiểm mà ta cần khám phá, và con người đến lúc coi buông tay như là trở về với
người thân với tổ tiên, không chút nghĩ ngợi. Thùy cứ miên man như vậy, mặc cho
hai người già nói chuyện với nhau.
Cháu à, mình về đến nơi rồi. Bà cụ lần ruột tượng lấy mấy tờ tiền dúi
vào tay ông lái đò. Ông xua tay rồi đẩy lại không nhận tiền của bà cụ. Ông nói
: Cụ ơi, cụ cất đi, hàng năm con được nhìn thấy cụ, được phục vụ cụ là con hạnh
phúc rồi, ở cái xứ này còn mấy ai như cụ đâu, cụ sống thật khỏe là chúng con mừng
rồi. Bà cụ áy náy, nhưng trước sự kiên quyết của chủ đò, cụ đành nói : Vậy thôi
tôi xin ông, cảm ơn ông lắm, bữa nào tôi qua nhà thắp hương cho bà ấy sau vậy.
Ông lái đò dặn lại bà cụ : Bà ơi, bà đến thăm con cháu là chúng con mừng rồi,
bà đừng quà cáp gì đấy nhé. Nói rồi ông đứng nhìn đến khi bà cụ đi khuất bóng.
Vậy mà cũng đã gần cuối ngày rồi. Thùy nắm tay bà cụ nói : Bà ơi cháu phải về rồi,
những gì cháu cần biết cháu đã được biết, cũng may cho cháu run rủi thế nào mà
được gặp bà. Bà cụ đỡ lời : Cháu à, cháu ngủ lại với bà một đêm nữa đi, sáng
mai về cũng được mà, bây giờ mà ra bắt xe chỉ còn chuyến cuối, về nhà cũng muộn
lắm, nghỉ ngơi đã cháu ạ. Thùy cảm động, cô nắm chặt tay bà cụ, cô nói tiếp :
Con xin phép bà con phải về, vì cửa hàng của con không bỏ đấy được. Con hứa có
dịp là con sẽ lên thăm bà ngay. Bà cụ nghĩ thế nào liền rút tay khỏi tay Thùy,
bà đi vào trong chỗ chiếc rương cũ. Bà lần mãi mới thấy chiếc hộp gỗ cũ. Bà cẩn
thận bê bằng hai tay ra chỗ chiếc bàn. Bà cụ nhìn Thùy rồi nói: Cháu à, cháu có
cơ duyên với vùng đất này, cháu đã gặp bà, lại được cô Mẩy về báo mộng, đó là
cơ may của cháu. Trước khi cô ấy mất, cô ấy có dặn Bà ; Nếu sau này có ai đam
mê cái nghề trà như cô ấy, mà tìm về đây thì bà hãy trao cho người ta cái ấm
trà này. Cô ấy cũng có ước nguyện nữa là: Mong chiếc ấm này sẽ gặp lại chiếc ấm
kia, để chúng được ở bên nhau mãi mãi, Thùy cảm động đưa tay đón nhận chiếc hộp.
Cô run run nói : Bà ơi, thật cháu có phúc quá, cháu cũng được chủ nhà tặng cháu
một chiếc ấm này, vậy là trong những mênh mang của trời đất lại có sự trùng
phùng đến kỳ lạ này, vậy là chúng đã được trở về bên nhau, cháu hy vọng Nam
nhân ấy sẽ tìm được cô Mẩy, họ sẽ được ở bên nhau mãi mãi.
Đến tám giờ tối Thùy mới về đến nhà, quán xá cũng đã được dọn gọn gàng,
cô lần tay bật đèn cả tầng một sáng choang, Thùy tiến về cầu thang đi lên gác.
Thùy thắc mắc ; Sao mới có hơn tám giờ mà con bé Hồng này nó đã nằm ngủ như chết
thế này, trên chiếc giường cô thường nằm, con Hồng nằm dạng hay tay hai chân
ra, chiếc yếm sộc sệch, hở cả già nửa một bên vú, bầu vú trinh nguyên thật tròn
trịa và đẹp, đến Thùy cũng phải lặng ngắm, rồi cái bụng phẳng lỳ không tì vết,
cái rốn sâu hun hút, Thùy lại gần vỗ vào vai con bé miệng gọi : Hồng, Hồng, dậy
đi em. Hồng giật mình choàng dậy, cô nhìn thấy Thùy liên kêu lên mừng rỡ,: Chị,
chị về rồi hả? Thôi em đi thay quần áo rồi đi về đây, em dọn dẹp mệt quá nên ngủ
lúc nào không biết. Thùy mỉm cười nhìn con bé, nó thật vô lo vô nghĩ, Rồi Thùy
lại chạnh lòng nghĩ đến nơi miền sơn cước đó. Thùy đặt mình xuống là thiếp đi
ngay, có lẽ do hai ngày đi lại nhiều nên cô ngủ rất sâu, Rồi Thùy mơ màng, cô
như nghe thấy có tiếng ai đó đang nói chuyện rất khẽ ở dưới nhà thỉnh thoảng lại
có tiếng cười khanh khách, quái lại, tiếng cười đó rất quen. Thùy ngồi hẳn dậy,
cô không bật đèn mà nương theo ánh trăng vừa qua rằm mà đi xuống cầu thang, cô
cố tình đi rất nhẹ, còn mấy bậc cuối nữa thì cô dừng lại, Nơi chiếc bàn quen
thuộc phía gian ngoài, có hai người đang ngồi quay lưng về phía cô, người đàn
bà dựa lưng vào vai người đàn ông, họ như đang tận hưởng giây phút hạnh phúc nhất
trong cuộc đời họ, phía trước là đôi ấm trà Lam khói, hương thơm lan tỏa đến khứu
giác của Thùy, nàng mê mẩn hít hà nó, mùi hương này y như trong giấc mơ Thùy gặp
Mẩy bên quán của chị ấy. Bất chợt Nam nhân quay đầu lại, khiến Thùy không kịp
phải ứng gì , cô thót tim rồi đứng ngay đơ ra đó, miệng há hốc. Đến lượt người
đàn bà cũng quay đầu lại, đúng là chị Mẩy mà, trời ơi vậy là họ đã gặp nhau,
nhìn nét mặt hai người rạng rỡ thật hạnh phúc. Mẩy lấy hết bình tĩnh mỉm cười với
họ, cả hai người cùng cười rồi giơ tay vẫy vẫy cô. Thùy gật đầu, rồi cứ thế đi
lùi trở lại, cô muốn để hai người có không gian riêng, chẳng gì cũng đã bao
nhiêu năm cách trở, Thùy chợt nghĩ đến bà cụ, nếu bà cụ mà biết hai con sông đã
chập lại thành một dòng, chắc bà cụ cũng mừng lắm. Thùy đi nhẹ về phía giường,
cô nằm lại, tự mỉm cười rồi kéo chiếc chăn mỏng đắp kín đầu. Tự nhiên cô thấy
thật trống trải, thấy thèm một hơi ấm của ai đó, người Thùy nóng dần lên cô cảm
thấy khó chịu vô cùng, cơ thể cứ như muốn nứt toác ra, muốn trào dâng bất tận.
( Hết )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét